Nghiên cứu ảnh hưởng của tỉ lệ protein khác nhau trên cơ sở cân đối một số axit amin thiết yếu ở mức cao đến sinh trưởng của lợn lai thương phẩm giai đoạn 18 - 50 kg
Tóm tắt
Thí nghiệm (TN) tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của khẩu phần (KP) ăn giảm tỉ lệ protein thô có bổ sung các axit amin (AA) tổng hợp đến sinh trưởng của lợn. Thí nghiệm được tiến hành theo phương pháp phân lô so sánh, nhắc lại hai lần với tổng số 66 lợn lai thương phẩm [Lợn đực lai (Pietrain x Landrace) x Cái lai (Landrace x Yorkshire)] và được chia là 3 lô đảm bảo đồng đều về giống, tuổi, khối lượng và tình trạng sức khoẻ. Lợn được nuôi trong hệ thống chuồng hở và theo chế độ ăn tự do.
KP TN được thiết kế đảm bảo 3200 kcal ME/kg thức ăn (TA). Tỷ lệ protein thô được thiết kế giảm qua các mức: 18; 17; 16% tương ứng với các lô 1, 2 và 3. Mức bổ sung bốn AA thiết yếu dạng tinh thể bao gồm: lysine, methionine, threonine và tryptophan dựa trên đề xuất của ARC (1981); Wang, Fuller (1989); Cole (1992); Baker, Chung (1992). Trong 1 kg TA có 11 g lysine, 7,15g threonine, 6,05g methionine + cystine và 2,09 tryptophan.
Kết quả TN cho thấy: KP TN giảm tỉ lệ protein thô có bổ sung 4 AA thiết yếu không ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của lợn (P µ ≥ 0,05). Sự sai khác về KL khi kết thúc TN chỉ từ 0,22 - 2,32% khi cho lợn ăn KP giảm 1 - 2% mức protein thô. Mặc dù tiêu tốn và chi phí TA/ kg tăng KL có chiều hướng tăng lên khi lợn được nuôi bằng KP giảm protein, nhưng năng suất và thành phần hoá học của thịt lợn không có sai khác rõ rệt. Trong chăn nuôi lợn lai thương phẩm giai đoạn sinh trưởng, nên sử dụng AA tổng hợp để giảm tỷ lệ protein của KP góp phần tiết kiệm thức ăn đạm, tăng hiệu quả chăn nuôi.
Từ khóa: Axit amin tinh thể, lợn lai thương phẩm, giảm protein thô.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, xu hướng sử dụng khẩu phần (KP) ăn giảm mức protein tổng số có bổ sung thêm các AA tổng hợp đang được nghiên cứu nhiều trên thế giới. Ưu điểm nổi bật của việc sử dụng KP có mức protein thấp nhưng được bổ sung thêm AA tổng hợp cho lợn là tác động tích cực đến môi trường. Việc đào thải nitơ từ các trang trại chăn nuôi đã và đang là mối đe doạ nghiêm trọng đối với sức khoẻ con người bởi ô nhiễm amoniac, nitrate/ nitrite trong đất và nước. Người chăn nuôi hiện nay ngày càng phải đối mặt với các nguyên tắc bảo vệ môi trường nghiêm ngặt. Việc giảm mức protein trong TA kết hợp với bổ sung thêm các AA tổng hợp đang là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi lợn. Các nghiên cứu mới đây của trường đại học Kentucky đã chứng minh được rằng, việc đào thải nitơ đã giảm từ 15 – 20% khi giảm đi 2% protein tổng số của KP có bổ sung thêm lysine, và lượng nitơ giảm đi 30 – 35% khi giảm 4% protein tổng số có bổ sung thêm các AA. Hàm lượng amoniac và các khí tải từ phân cũng giảm đáng kể khi sử dụng KP có mức protein thấp được bổ sung thêm các AA tổng hợp.
Ở Việt Nam , việc sử dụng các AA tổng hợp như lysine, methonine trong TA cho lợn đã được nghiên cứu từ nhiều năm nay. Những nghiên cứu sử dụng các loại AA khác như threonine và tryptopphan hầu hết mới chỉ tiến hành trên lợn con và chỉ dừng ở mức bổ sung thêm trên nền TA có tỷ lệ protein thô ở mức cao. Các khuyến cáo về mức lysine cho lợn giai đoạn sinh trưởng 18 - 50 kg thường là 10 g/kg TA (ARC, 1981; Komise vyziva hosodarskych zvirat, 1993; NRC, 1998).
Khi giảm tỉ lệ protein của KP, vẫn cần thiết phải đáp ứng nhu cầu các AA, đặc biệt là threonine và tryptophan. Vì thế, việc tiến hành các nghiên cứu sử dụng 4 loại AA tổng hợp là L – lysine, DL-methionine, L-threonine và L-tryptophan tính theo lysine ở mức cao ảnh hưởng như thế nào đến sinh trưởng của lợn, mà lại góp phần tiết kiệm TA đạm và nâng cao hiệu quả chăn nuôi lợn là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
2. Phương pháp
Thí nghiệm (TN) được bố chí theo phương pháp phân lô so sánh, đảm bảo đồng đều về số lượng, giống, tuổi, tính biệt, khối lượng (KL) và điều kiện chăm sóc. Lợn TN là lợn lai thương phẩm giữa các giống lợn ngoại [Lợn đực lai (Pietrain x Landrace) x Cái lai (Landrace x Yorkshire)] với tổng số 66 con, chia đều cho 3 lô, được lặp lại hai lần trong quá trình TN. Tỷ lệ lợn đực cái trong mỗi lần TN là 6/5. Lợn TN được nuôi trong hệ thống chuồng hở, thông thoáng tự nhiên. TA được cung cấp theo chế độ tự do trên máng ăn bán tự động. Nước uống được cung cấp qua các vòi uống tự động.
KP TA TN được xây dựng với mức năng lượng là 3200 kcal ME và cân đối đủ lượng 4 AA thiết yếu là lysine, methionine, threonine và tryptophan ở mức cao, trong đó tỷ lệ các AA đối với lysine áp dụng theo đề xuất của ARC (1981); Wang, Fuller (1989); Cole (1992); Baker, Chung (1992). Cụ thể, trong 1 kg TA có: 11g lysine, 7,15g threonine, 6,05g methionine + cystine và 2,09 tryptophan. Mức protein thô trong KP được thiết kế giảm dần: 18% - 17% - 16% theo thứ tự các lô tương ứng 1, 2 và 3. Để điều chỉnh đủ tỷ lệ lysine cũng như các AA theo thiết kế, chúng tôi sử dụng các AA tổng hợp như L - lysine, DL- methionine, L-threonine và L-tryptophan.
Nguyên liệu TA trước khi đưa vào thí nghiệm được phân tích các thành phần dinh dưỡng cơ bản như protein, AA, chất xơ, lipit và chất khoáng tại phòng Thí nghiệm trung tâm trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Công thức TA TN được xây dựng trên phần mềm OPTIMIX.
Các chỉ tiêu theo dõi bao gồm sinh trưởng tích luỹ, lượng TA tiêu thụ/ ngày, tiêu tốn và chi phí TA/kg tăng KL, kết quả mổ khảo sát năng suất và phân tích thành phần hoá học của thịt khi lợn TN đạt KL xấp xỉ 50kg.
Số liệu được xử lý thống kê trên phần mềm thống kê STATGRAPH version 4.0.
3. Kết quả và thảo luận
3.1 Khả năng sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm
Kết quả theo dõi về sinh trưởng và tích luỹ của TN cho thấy, với KL lúc bắt đầu TN của các lô tương đương nhau (từ 18,09 đến 18,27 kg/con, P a ≥ 0,05), khi kết thúc TN, KL các lô có sự thay đổi. Ở lô 1 18% protein KL khi kết thúc TN đạt cao nhất (50,07 kg/con), tiếp theo là lô 2 (17% protein) và thấp nhất là lô 3 (16% protein) chỉ đạt 48,91 kg/con (Bảng 1).
Tuy nhiên sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê (P a ≥ 0,05). Điều này cho thấy khi giảm tỷ lệ protein trong KP mà vẫn đảm bảo nhu cầu 4 loại AA thiết yếu là lysine, threonine, methionine + cystine và tryptophan thì không ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của lợn.
Về mặt số học, sinh trưởng của lợn có xu hướng giảm khi giảm tỷ lệ protein trong KP, mặc dù đã đáp ứng được nhu cầu của 4 AA thiết yếu, như vậy, việc giảm tỷ lệ protein đã kéo theo sự thiếu hụt của AA khác. Mức giảm càng tăng, sự thiếu hụt càng cao, nên sinh trưởng của lợn giảm nhiều hơn. KL của lợn lúc kết thúc TN giữa lô 1 và 2 cho thấy, nếu chỉ giảm 1% protein của KP, thì sinh trưởng của lợn hầu như không có sự thay đổi (chỉ giảm 0,22%). Từ đó cho thấy, với 4 loại AA tổng hợp là L- tryptophan, L- lysine, DL- methionine, và L threonine chúng ta có thể giảm tỷ lệ protein 1 – 2% mà vẫn đảm bảo sinh trưởng của lợn.
Phương trình tương quan giữa KL lợn khi kết thúc TN và tỷ lệ protein trong TA như sau:
Y = 40,44020 + 0,538636X với hệ số tương quan R = 0,07966 cho thấy tương quan giữa hai đại lượng này thấp, hay nói cách khác, khi giảm tỷ lệ protein của KP mà vẫn giữ một số AA thiết yếu ở mức cao thì không ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của lợn.
3.2 Ảnh hưởng của việc giảm tỉ lệ protein trong KP có cân đối một số AA thiết yếu đến khả năng sử dụng thức ăn của lợn TN
![]() |
| Tiêu tốn thức ăn và protein/ 1kg tăng khối lượng lợn thí nghiệm. |
Tiêu tốn TA/ kg tăng KL của lợn TN tăng lên theo chiều giảm của tỉ lệ protein trong KP (từ 1,783 đến 1,831 đến 1,882 kg TA, tương ứng theo các lô 1 - 2 - 3), với mức tăng từ 2,69 đến 5,57%. Tuy nhiên tiêu tốn protein/ kg tăng KL ngược lại, giảm dần theo chiều giảm của tỷ lệ protein (giảm từ 320,94 đến 311,27 đến 301,12g, tương ứng theo các lô 1 - 2 - 3; với mức giảm từ 3,02 đến 6,18%). Như vậy, việc giảm tỷ lệ protein của KP, có xu hướng làm giảm hiệu suất sử dụng TA của lợn Tn, việc giảm này theo chúng tôi, ngoài do tốc độ sinh trưởng, còn do ảnh hưởng của tỷ lệ tiêu hoá của lợn đối với KP có mức protein thấp hơn. Các tác giả Otto và cs. (2003), H. T Thong và Liebert (2004) cũng cho thấy tỉ lệ tiêu hoá protein tăng lên khi tăng mức protein trong KP. Tuy nhiên, trong TN của chúng tôi do cân đối được 4 AA thiết yếu, mức độ giảm có phần ít hơn.
![]() |
| Chi phí thức ăn/ 1kg tăng khối lượng của lợn thí nghiệm. |
3.3 Ảnh hưởng của việc giảm protein có cân đối một số axit amin thiết yếu đến năng suất và thành phần hoá học của thịt lợn
![]() |
| Kết quả mổ khảo sát năng suất thịt lợn. |
![]() |
| Kết quả phân tích thành phần hoá học của thịt lợn thí nghiệm (tỷ lệ % trong thịt lợn tươi). |
4. Kết luận
Việc giảm tỷ lệ protein trong KP từ 18 xuống 16% mà vẫn giữ nguyên mức lysine, threonine, methionine + cystine và tryptophan theo ARC (1981) thì không ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của lợn (P a ≥ 0,05). Mặc dù tiêu tốn và chi phí TA cho một kg KL tăng lên khi cho lợn ăn KP giảm protein, nhưng năng suất và thành phần hoá học của thịt lợn không có sự khác biệt. Trong chăn nuôi lợn lai thương phẩm giai đoạn sinh trưởng, nên sử dụng AA tổng hợp để giảm tỷ lệ protein của KP góp phần tiết kiệm TA đạm, nâng cao hiệu quả chăn nuôi.
Tài liệu tham khảo : trang 9 bản thảo.
Nguồn: T/c Chăn nuôi, 4 - 2008, tr 4












