Ngành thép Việt Nam năm 2009
I. Tổng quan về tình hình kinh tế 2008 và các yếu tố ảnh hưởng đến công nghiệp thép Việt Nam năm 2009
Sau nhiều năm kinh tế trong nước phát triển thuận lợi, mức độ tăng trưởng GDP duy trì khá ổn định ở mức cao, trong đó ngành công nghiệp và xây dựng có mức tăng trưởng tốt đã tác động tích cực đến sản xuất và tiêu thụ thép trong nước. Tuy nhiên từ cuối năm 2007 và đặc biệt những tháng đầu năm 2008, tình hình kinh tế trong nước đã xuất hiện những dấu hiệu bất ổn, tỷ lệ lạm phát tăng đột biến, giá cả các mặt hàng trọng yếu, trong đó có mặt hàng thép đã tăng với mức độ chưa từng thấy. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến kinh tế Việt Nam . Nguyên nhiên liệu của ngành công nghiệp thép Việt Nam vốn phụ thuộc phần lớn vào nguồn nhập khẩu từ nước ngoài như: năm 2008 phôi thép nhập khẩu chiếm gần 50%, thép phế liệu làm nguyên liệu sản xuất lò điện nhập gần 70%, than cốc nhập 80%... do chịu tác động của khủng hoảng đã tăng giá liên tục từ giữa năm 2007 tới tháng 5/2008, nhưng sau đó do suy thoái kinh tế giá nguyên liệu và sản phẩm thép đã tuột dốc, giảm còn 1/3 so với đầu năm. Nhiều doanh nghiệp bị tồn kho nguyên liệu giá cao với số lượng lớn, buộc phải bán lỗ, hoặc tái xuất với giá hạ để có tiền trả nợ ngân hàng, trả lương công nhân v.v... Thị trường thép trong nước bị đình đốn, sản xuất ngưng trệ, nhiều công ty đã phải dừng sản xuất hoặc sản xuất gián đoạn, vì không tiêu thụ được sản phẩm. Kết thúc năm 2008, nhiều công ty thép bị lỗ, mặc dù 6 tháng đầu năm có lợi nhuận rất cao. Những công ty có tồn kho thép phế liệu, phôi thép giá cao với khối lượng lớn chuyển sang đã làm cho tình trạng lỗ kéo dài cả sang năm 2009. Một số công ty do dự đoán tình hình kinh tế còn khó khăn, nên nhập ít nguyên liệu, chủ yếu mua phôi thép trong nước thì thoát được tình trạng ứ đọng và sang năm 2009 đã bước đầu khôi phục sản xuất. Những chỉ tiêu về sản xuất, tiêu thụ và nhập khẩu các sản phẩm thép năm 2008 đã sụt giảm so với năm 2007.
Dưới đây là số liệu thống kê một số chỉ tiêu kinh tế Việt Nam và của ngành công nghiệp thép trong nước những năm gần đây.
Bảng 1: Các số liệu kinh tế cơ bản
Các số liệu | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | 6 tháng đầu năm 2009 |
Tăng trưởng GDP (%) | 8,43 | 8,17 | 8,48 | 6,23 | 3,9 |
Trong đó: | |||||
Tăng trưởng công nghiệp và xây dựng | 41,03 | 41,50 | 41,61 | 39,91 | 3,48 |
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài FDI (tỷ USD) | 5,85 | 10,02 | 20,30 | 64,00 | 8,9 |
Tỷ lệ lạm phát (%) | 8,40 | 6,60 | 12,63 | 19,89 | 2,68 |
Bảng 2: Số liệu sản xuất thép của Việt Nam những năm gần đây
Đơn vị: Ngàn tấn
TT | Các số liệu | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | 6 tháng đầu năm 2009 | |
1. | Sản xuất phôi thép | 1.318 | 1.869 | 2.024 | 2.250 | 1.138 | |
2. | Sản xuất sản phẩm thép | 4.244 | 4.743 | 5.598 | 5.754 | 2.633 | |
Trong đó: | |||||||
- Sản phẩm dài: | 3.264 | 3.468 | 3.955 | 3.867 | 1.928 | ||
gồm: | - Thép thanh - Thép cuộn - Thép hình | 2.073 938 253 | 2289 936 243 | 2859 960 136 | 2898 887 82 | 1.499 399 30 | |
- Thép cuộn cán nguội | 80 | 215 | 392 | 432 | 157 | ||
- Ống thép hàn | 450 | 460 | 528 | 550 | 214 | ||
- Thép mạ kim loại và phủ màu | 450 | 600 | 723 | 904 | 334 | ||
Bảng 3:Nhập khẩu thép sản phẩm và nguyên liệu sản xuất thép vào Việt Nam những năm gần đây
Đơn vị: tấn
TT | Các số liệu | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | 6 tháng đầu năm 2009 |
A. | Các sản phẩm: 1. Các sản phẩm dẹt 2. Các SP mạ kim loại và phủ màu 3. Thép thanh 4. Thép cuộn 5. Thép hình 6. Dây thép 7. Ống thép hàn 8. Ống thép không hàn 9. Ống khác 10. Thép khác 11. Thép không gỉ | 3.461.000 2.488.000 153.478 - - 98.475 72.907 25.092 67.621 4.504 307.206 131.478 | 3.911.000 2.658.000 147.414 84.794 150.995 173.370 101.141 43.411 55.150 2.822 337.505 156.452 | 6.567.171 4.461.242 275.586 81.786 459.263 236.434 124.410 81.304 87.559 5.411 500.184 253.992 | 6.198.000 4.273.000 214.000 126.000 392.000 213.000 98.000 45.000 35.000 3.000 541.000 214.000 | 3.002.480 2.110.647 137.051 30.125 198.459 110.239 33.105 15.737 11.154 509 238.202 117.252 |
B. | Phôi thép | 2.157.000 | 1.824.374 | 2.187.888 | 2.276.000 | 1.074.667 |
C. | Thép phế liệu | 260.874 | 527.263 | 1.051.216 | 1.481.000 | 958.811 |
II/ Tình hình thị trường thép Việt Nam 6 tháng đầu năm 2009
Những biện pháp của Chính phủ nhằm hạn chế lạm phát năm 2008 chủ yếu là những chính sách về tiền tệ như điều chỉnh lãi suất ngân hàng, điều chỉnh tỷ giá, kiểm soát chặt chẽ tín dụng cho vay của ngân hàng, cắt giảm các dự án đầu tư chưa có hiệu quả hoặc hạn chế đầu tư công v.v... đã có tác dụng kiềm chế lạm phát nhưng cũng làm cho tiêu thụ thép giảm sút rõ rệt. Tháng 1 và 2 của năm 2009, sản xuất và tiêu thụ thép chỉ còn ở mức bằng 1/4 mức trung bình mọi năm. Trước tình hình suy giảm kinh tế trong nước, Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều biện pháp điều chỉnh như hạ lãi suất cho vay, tiếp tục giải ngân cho các dự án sau khi đã rà soát kỹ lưỡng hiệu quả đầu tư, kiểm soát chặt chẽ tỷ giá giữa VND và USD. Đặc biệt là các gói kích cầu của Chính phủ đã tháo gỡ nhiều khó khăn cho các công trình đầu tư, kích thích đẩy nhanh tốc độ triển khai các dự án của Nhà nước cũng như của mọi thành phần kinh tế.
Chính nhờ những biện pháp điều chỉnh kịp thời đó, nhiều ngành kinh tế, trong đó có ngành thép từ tháng 3/2009 đã dần dần được khôi phục, sản xuất và tiêu thụ thép đã chuyển biến rõ rệt.
Bảng 4:Sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thép 6 tháng đầu năm 2009
Đơn vị: tấn
Tên sản phẩm | Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 |
Sản xuất thép cán | 231.257 | 236.877 | 297.192 | 333.221 | 392.238 | 324.939 |
Sản xuất cuộn cán nguội | 23.382 | 21.128 | 27.039 | 26.526 | 27.544 | 31.511 |
Sản xuất thép ống | 18.184 | 31.411 | 40.515 | 40.606 | 41.649 | 42.058 |
Sản xuất tôn mạ | 35.718 | 49.243 | 67.406 | 54.144 | 61.450 | 66.325 |
Tiêu thụ thép cán | 175.121 | 257.324 | 355.909 | 431.838 | 354.990 | 352.850 |
Tiêu thụ cuộn cán nguội | 16.518 | 20.573 | 25.466 | 23.004 | 24.888 | 26.862 |
Tiêu thụ thép ống | 17.505 | 29.893 | 36.303 | 37.043 | 39.992 | 43.364 |
Tiêu thụ tôn mạ | 23.717 | 40.615 | 48.489 | 50.284 | 47.235 | 54.764 |
Nếu chỉ tính sản lượng thép cán xây dựng, tổng sản lượng 6 tháng đầu năm đạt 1.823.359 tấn, giảm 7,28% so với cùng kỳ năm 2008; Tổng tiêu thụ đạt 1.929.062 tấn, so với cùng kỳ năm trước tăng 4,25%.
Những năm trước đây, tỷ lệ phôi thép nhập khẩu chiếm 60 – 70% nhu cầu phôi của các nhà máy cán, từ năm 2008 do nhiều lò điện xây dựng trong nước đã đi vào sản xuất nên tỷ lệ phôi trong nước đã chiếm trên 50% và sang năm 2009, tỷ lệ này đạt ~ 60% nhờ vậy sẽ bớt sự phụ thuộc vào biến động của phôi thép nhập khẩu.
Theo số liệu hải quan, tổng lượng thép thành phẩm và nguyên liệu thép nhập khẩu vào Việt Nam tính đến 30/6/2009 đạt hơn 5,114 triệu tấn với kim ngạch nhập khẩu đạt trên 2,508 tỷ USD, trong đó:
Sản phẩm | 6 tháng Năm 2009 | So với cùng kỳ năm 2008 | |
Cùng kỳ năm 2008 | % | ||
Phôi thép | 1.074.667 | 1.697.980 | 63,29% |
Thép tấm lá đen | 2.110.647 | 3.108.254 | 67,90% |
Thép cuộn | 198.459 | 338.769 | 58,58% |
Thép phế | 958.811 | 887.035 | 108,09% |
Số lượng sản phẩm thép xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 2009:
- Thép xây dựng: 51.108 tấn.
- Thép cuộn cán nguội: 985 tấn.
- Thép ống: 21.282 tấn.
- Thép mạ kim loại: 55.088 tấn.
Nhìn chung, lượng xuất khẩu đạt thấp vì thị trường thế giới và các nước trong khu vực đang trong giai đoạn suy thoái kinh tế, nhu cầu thép giảm thấp, nhiều nước còn tồn kho thép lớn nên hạn chế lượng thép nhập khẩu.
III/ Diễn biến giá thép của thị trường trong nước 6 tháng đầu năm 2009
Chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế, giá nguyên liệu và sản phẩm thép ở thị trường quốc tế đã giảm mạnh trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009.
Giá thép ở thị trường trong nước cũng giảm mạnh và duy trì khá ổn định trong 3 tháng đầu năm 2009:
Cụ thể giá: - Thép cuộn F6 - F8 ở mức: 10~10,3 triệu/tấn
- Thép cây ở mức: 10,3~10,8 triệu/tấn
Từ tháng 4/2009 có những biến động về giá cả nguyên liệu và thuế nhập khẩu.
- Giá phôi thép nhập khẩu tăng 20-30 USD/tấn (ở mức 420- 430 USD/tấn). Tới đầu tháng 7/2009, giá chào phôi thép vào Việt Nam đã lên tới 470 USD/tấn.
- Giá thép phế nhập khẩu tăng 15 - 20 USD/tấn (ở mức 300 USD/tấn). Đầu tháng 7, giá thép phế đã trên mức 300 USD/tấn.
- Từ 1/4/2009, thuế nhập khẩu phôi tăng từ 5% lên 8%. Thuế nhập khẩu thép xây dựng thành phẩm tăng từ 12% lên 15%. Thuế nhập khẩu cán nguội tăng lên 8%, tôn mạ kim loại và phủ màu là 13%.
- Tỷ giá dollar tăng từ 17.000VNĐ/1 USD lên ~ 18.000VNĐ/1 USD. Và hiện tại rất khan hiếm. Từ tháng 7, chỉ thị của Ngân hàng Nhà nước hạn chế cho vay ngoại tệ để nhập nguyên liệu trong đó có sắt thép phế đã gây khó khăn cho các công ty sản xuất phôi.
- Giá xăng dầu Nhà nước đã điều chỉnh tăng nhiều lần và đầu tháng 7/2009 tăng lần thứ 5.
Tiêu thụ thép trong nước đã có chiều hướng phục hồi. Vì vậy, giá thép trong nước cũng tăng theo.
Giá thép xây dựng tại thị trường Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh đầu tháng 7/2009 đã tăng lên.
Đơn vị tính: VNĐ/kg
Loại | Miền Bắc | Miền Nam | ||
GTTN | Liên doanh | VnSteel | Vinakyoei | |
Thép tròn đốt | 11.000 | 10.714 | 11.150 | 11.200 |
Thép cuộnf6 | 10.780 | 10.714 | 10.670 | 10.760 |
(Giá xuất xưởng chưa có VAT, chưa trừ chiết khấu)
Tuy nhiên, việc tăng giá thép cũng sẽ tạo điều kiện để thép Trung Quốc và thép các nước ASEAN có cơ hội nhập vào Việt Nam nhiều hơn.
Số lượng thép cuộn nhập vào Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2009 đã lên tới 200.000 tấn. Đây là mối lo thường trực đối với các công ty sản xuất thép trong nước khi hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới.
Để vượt qua khó khăn trong giai đoạn kinh tế suy thoái và cạnh tranh khốc liệt hiện nay, các công ty thép Việt Nam đã có nhiều giải pháp như:
- Đẩy mạnh sản xuất phôi thép trong nước để hạ bớt tỷ lệ nhập khẩu phôi thép nước ngoài, tăng tính chủ động, giảm bớt ảnh hưởng do biến động giá phôi thế giới khi khan hiếm hoặc nhu cầu thép tăng.
- Đưa công nghệ và trang thiết bị mới có công suất cao, kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh.
- Tăng cường công tác thông tin dự báo thị trường để ứng phó kịp thời với những biến động về cung cầu thép, về giá nguyên vật liệu thế giới, để tránh tổn thất.
- Kiến nghị kịp thời với các cơ quan, Bộ, ngành liên quan và Chính phủ để có những giải pháp tháo gỡ khó khăn kịp thời cho các doanh nghiệp, bảo vệ sản xuất trong nước tránh những cạnh tranh không bình đẳng của nước ngoài và các hành vi gian lận thương mại, lách luật, trốn thuế,..
IV. Dự báo tình hình công nghiệp thép trong nước 6 tháng cuối năm 2009
Tình hình thế giới hiện tại vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng, công nghiệp thép ở hầu hết các nước vẫn đang trong giai đoạn cắt giảm sản xuất, nhiều nhà máy phải ngừng hoạt động đặc biệt là các nước xuất khẩu thép đang dư thừa thép với số lượng lớn, đang tìm thị trường để xuất khẩu.
Giá nguyên liệu cơ bản của ngành thép như quặng sắt, than luyện cốc đang được các nước sản xuất thép lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,.. thảo luận với các nước xuất khẩu như Braxin, Úc... với xu hướng hạ giá 30% đến 40%. Gần đây, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đã chấp thuận giảm 33% giá quặng so với năm 2008. Riêng Trung Quốc nước xuất khẩu và nhập khẩu các nguyên liệu thép lớn nhất thế giới vẫn chưa ký hợp đồng chính thức với các nước xuất khẩu quặng để gây áp lực đòi giảm giá nữa.
Với xu thế chung của công nghiệp thép như vậy, chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến công nghiệp thép của Việt Nam , trước tiên là về giá thép. Có thể có biến động nhưng không thể có tăng đột biến. Hơn nữa, Việt Namgần Trung Quốc và các nước ASEAN có giá thép rẻ hơn Việt Namsẽ gây áp lực cạnh tranh làm cho giá thép trong nước không thể tăng quá mức để thép nước ngoài tràn vào Việt Nam .
Về các gói kích cầu của Nhà nước (tổng 2 đợt 8 tỷ USD) đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước triển khai các dự án, đặc biệt là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư bất động sản, xây dựng nhà cho đối tượng có thu nhập thấp, nhà ở nông thôn, nhà ở sinh viên,..làm cho nhu cầu thép sẽ tăng và khôi phục dần mức tăng trưởng của ngành thép trong nước.
Hiện nay, nhiều dự án thép liên hợp của nước ngoài đang triển khai ở Hà Tĩnh, Ninh Thuận, Quảng Ngãi và Bà Rịa - Vũng Tàu. Nếu các dự án này được triển khai như tiến độ đã duyệt, sản lượng thép của Việt Nam sẽ có bước nhảy vọt.
Kết luận
Tuy nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng với những giải pháp kinh tế của Chính phủ đã từng bước tháo gỡ khó khăn và nền kinh tế Việt Nam vẫn là một trong số ít nước có nền kinh tế tăng trưởng dương. Riêng đối với ngành công nghiệp thép, nhờ các gói kích cầu của Nhà nước và đặc biệt là các giải pháp về tài chính, các doanh nghiệp trong Hiệp hội đã có rất nhiều giải pháp để vượt qua thời kỳ khó khăn và đã bước đầu khôi phục nên sản xuất và tiêu thụ thép không suy giảm nhiều so với các năm trước. Trong 6 tháng đầu năm 2009, tiêu thụ thép đã tăng trưởng 4,25% và các dự án đầu tư của các công ty thép trong nước vẫn tiếp tục được triển khai.
Nhiều nhà đầu tư nước ngoài coi Việt Nam là nước có tiềm năng xây dựng và phát triển công nghiệp luyện thép nên mặc dù kinh tế toàn cầu suy thoái nhưng các nhà đầu tư lớn của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ,.. vẫn tiếp tục triển khai các dự án lớn với mức đầu tư nhiều tỷ USD vào Việt Nam .