Nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học trong sinh viên
Những lợi ích của NCKH trong sinh viên
Có lẽ, từ cách đặt vấn đề đúng nên từ khi NCKH trong sinh viên được phát động như một phong trào đến nay, quy mô và chất lượng NCKH trong sinh viên ngày càng tăng. Số lượng các đơn vị tham gia /số công trình gửi dự thi /số công trình đoạt giải /số công trình đoạt giải nhất lần lượt theo một số điểm mốc là: 18/62/52/3 (1990), 33/147/67/9 (1994), 58/396/246/15 (1999), 83/505/476/15 (2004), 83/508/478/16 (2005), 90/534/511/14 (2006).
Sự gia tăng của các đơn vị tham gia, số công trình gửi dự thi và số công trình đạt giải cho thấy, NCKH trong sinh viên ngày càng được nhân rộng, phổ biến. Số lượng các công trình đạt giải có xu hướng tăng nhưng số lượng công trình đạt giải nhất có xu hướng chững lại từ năm 2004 (năm mà Bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành tổng kết 15 năm phong trào sinh viên NCKH). Như vậy, bên cạnh mục tiêu: Giúp cho sinh viên làm quen với phương pháp NCKH; có cơ hội vận dụng những kiến thức đã được trang bị, nguồn tư liệu và thông tin khoa học cập nhật để thực hiện các ý tưởng khoa học ngay từ khi còn học tập tại nhà trường, thông qua đó thay đổi phương pháp học tập theo hướng tự học, tự nghiên cứu, nâng cao chất lượng đào tạo; sinh viên NCKH là cơ hội để chúng ta phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài trẻ sinh viên. Những sinh viên đạt giải nhất cấp Bộ những năm gần đây được coi là một trong những nguồn đào tạo ở nước ngoài theo chỉ tiêu ngân sách nhà nước. Nhiều đơn vị coi điều kiện được giải thưởng sinh viên NCKH của Bộ Giáo dục và Đào tạo là một trong tiêu chuẩn ưu tiên xét chuyển tiếp cao học và nghiên cứu sinh và số sinh viên này được coi là nguồn cán bộ của đơn vị.
Hiệu quả của phong trào sinh viên NCKH không chỉ thể hiện ở các con số thống kê mà thực chất là ở sự trưởng thành của mỗi sinh viên khi tham gia cũng như không khí học tập, nghiên cứu của sinh viên. Vào tháng sinh viên NCKH, không khí giảng đường đại học thật sôi động và mang đầy tính học thuật: Toạ đàm ở lớp, khoa, nhóm ngành và toàn trường. ở đó, các bài viết được nhìn nhận từ cả phía sinh viên và các chuyên gia. Thậm chí, không ít vấn đề sinh viên đặt ra và giải quyết trong NCKH của mình đã tạo ra các ý kiến tranh luận rất khác nhau của các chuyên gia.
Phong trào sinh viên NCKH đã giúp không ít sinh viên xác định được định hướng nghiên cứu của mình không những khi còn đang học đại học (công trình dự thi, niên luận, tiểu luận thực tập tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp) mà còn cả khi đã tốt nghiệp và học tiếp bậc sau đại học hoặc thực tiễn công tác của mình. Những năm gần đây, sinh viên NCKH đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính quan tâm một cách thoả đáng. Điều này được thể hiện qua việc xác định kinh phí cho hoạt động này là kinh phí hoạt động thường xuyên của các trường đại học, giống như những nhiệm vụ khoa học và công nghệ khác.
Một số tồn tại và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu định lượng và định tính đáng tự hào về phong trào sinh viên NCKH, nên chăng cũng cần phân tích một số vấn đề đang biểu hiện ra như là những hạn chế - tuy không lớn nhưng cũng cần sớm khắc phục - để nâng cao hơn nữa hiệu quả NCKH của sinh viên. Những bất cập này bắt nguồn từ nếp nghĩ: Sinh viên NCKH chỉ là hoạt động mang tính chất “phong trào” hoặc là do cách thức tổ chức thực hiện ở các cơ sở tạo ra như là hệ quả không mong muốn nảy sinh từ ý nghĩa phụ của thông tin.
Một số quan điểm, tư tưởng cho rằng, NCKH của sinh viên chỉ nên quan niệm nhẹ nhàng, có tính chất phong trào để sinh viên làm quen với NCKH, không nên đặt quá nhiều kỳ vọng vào những công trình nghiên cứu của sinh viên. Từ quan niệm đó, có thể có cách làm giao khoán cho tổ chức đoàn, hội từ khâu tổ chức đến khâu xét và gửi các công trình dự thi. Hoạt động NCKH trong sinh viên phải tự nhiên, xuất phát từ nhu cầu, sở thích, niềm say mê của mỗi sinh viên là đương nhiên, nhưng nếu ủy thác cho đoàn, hội như vậy chưa phải là một cách làm hay. Rõ ràng, NCKH đối với sinh viên còn nhiều xa lạ, bỡ ngỡ và lúng túng. Họ cần có sự phát hiện, chỉ dẫn, có những gợi mở, trao đổi về phương pháp tiếp cận và giải quyết vấn đề của những nhà khoa học - đội ngũ cán bộ giảng dạy ở trường đại học. Kinh nghiệm từ Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho thấy, đoàn, hội là những tổ chức rất quan trọng trong việc động viên, cổ vũ, phát động phong trào cũng như tổ chức các cuộc tọa đàm, sinh hoạt, thảo luận ở lớp, khoa khi các báo cáo khoa học của sinh viên đã được hình thành về cơ bản. Nhưng khi tổ chức hội nghị nhóm ngành và toàn trường cũng như quá trình chấm, thẩm định để xác định các công trình gửi dự thi lại là công việc chuyên nghiệp của các nhà khoa học.
Tuy không nhiều và không phổ biến, nhưng vẫn tồn tại tư tưởng chạy theo thành tích (kể cả cấp quản lý ở trường đại học và sinh viên). Sinh viên trong lớp động viên nhau tham gia giành giải tập thể cấp khoa, sinh viên các khoa động viên nhau tham gia để giành giải tập thể cấp trường. Thậm chí, không loại trừ hiện tượng các chuyên viên triển khai phong trào sinh viên NCKH có xu hướng đầu tư cho sinh viên ưu tú để có thể dễ dàng “gặt hái” những kết quả sẵn có hoặc ở dạng tiềm năng.
Phát động theo đợt kể cả khi có kế hoạch cụ thể, chi tiết cũng có thể tạo ra tình trạng bị động và lâu dần tạo ra tâm lý thụ động của sinh viên trong NCKH. Theo lẽ thường, các đơn vị thường triển khai kế hoạch NCKH của sinh viên vào đầu năm học. Sinh viên thường bị động, không có những chuẩn bị trước. Các thầy, cô lúc đó mới hình thành hệ thống các đề tài định hướng cho sinh viên. Hệ quả tất yếu là những đề tài nghiên cứu không liền mạch, tản mạn ngay cả với sinh viên. Thầy hướng dẫn số lượng sinh viên lớn với các đề tài đa dạng nên nhiều khi trở thành hình thức, chiếu lệ. Tình trạng dàn trải làm khó phát hiện những ý tưởng hay, không giúp gợi mở phương pháp tiếp cận phù hợp và hiện đại. Số lượng sinh viên tham gia đông nhưng trên thực tế chủ yếu là sinh viên năm thứ 3 và một phần sinh viên năm thứ 2. Sinh viên năm thứ nhất và một phần năm thứ hai mới tiếp xúc với những môn học thuộc khối kiến thức giáo dục đại cương, ít được các thầy, cô gợi mở các hướng nghiên cứu thuộc các môn học này. Hơn nữa, sinh viên các năm đầu vẫn mang phong cách học phổ thông, ít có cơ hội tham gia NCKH. Sinh viên năm cuối tuy được tiếp xúc với nhiều môn chuyên ngành, được thầy, cô gợi mở các hướng nghiên cứu nhưng lại phải chạy theo các hạn định khác như: Thực tập tốt nghiệp, ôn thi tốt nghiệp, khoá luận tốt nghiệp.
Việc thẩm định, chấm điểm cho báo cáo khoa học của sinh viên do nhiều áp lực khác nhau, nên nhiều khi thiên về việc đặt vấn đề và giải quyết vấn đề một cách trọn vẹn, có đầu có cuối, ít chú ý và nâng đỡ những bài có ý tưởng mới, nhất là những ý tưởng mới nhưng hạn chế về phương pháp và một phần vốn hiểu biết xã hội của sinh viên (đặc biệt là sinh viên các ngành khoa học xã hội và nhân văn).
Giải pháp nâng cao hiệu quả
Vượt bỏ tính phong trào để NCKH sinh viên trở thành một hoạt động không thể thiếu trong học đường đại học là một nhận thức cần được quan tâm để nâng cao chất lượng đào tạo đại học. Tổ chức đoàn, hội cần làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, động viên khuyến khích để sinh viên thấy NCKH là một công việc thường xuyên và bất kỳ lúc nào cũng được phát hiện, giúp đỡ. Xoá bỏ tâm lý chờ nhà trường, khoa, đoàn, hội phát động rồi mới khởi động nghiên cứu. Điều quan trọng và có tính quyết định vẫn là đội ngũ các nhà khoa học - những người thường xuyên tiếp xúc, truyền thụ kiến thức, rèn năng lực tư duy cho sinh viên. Đội ngũ này không chỉ là những tấm gương trong việc tìm tòi, khám phá khoa học mà còn phải biết truyền thụ cho sinh viên sự hứng thú và niềm say mê NCKH. Song song với việc tôn trọng, cổ vũ, chào đón ý tưởng đề xuất của sinh viên, đội ngũ cán bộ giảng dạy phải thực sự là những người biết và có khả năng trao đổi, vạch những hướng nghiên cứu để dẫn dắt sinh viên. Thực tế cho thấy, những công trình đạt giải cao, có giá trị khoa học là những công trình có những phương pháp tiếp cận và giải quyết vấn đề mà cả thầy và trò cùng trăn trở.
Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng thầy đặt vấn đề, sinh viên làm việc theo nhóm để tìm cách giải quyết vấn đề có sự nhận xét, hướng dẫn của thầy giáo là một trong những việc cần làm để nâng cao chất lượng đào tạo, khơi gợi và rèn luyện năng lực sáng tạo của sinh viên. Mỗi bài giảng nên bắt đầu bằng việc thầy, cô nêu vấn đề, sinh viên làm việc theo nhóm, tranh luận, phản biện, bảo vệ quan điểm, sau đó có tổng kết, bàn bạc. Theo sát sinh viên trong từng bài giảng, bằng cách đó, thầy phát hiện và giúp sinh viên dần định hướng cho những nghiên cứu của mình và theo đuổi nó trong các báo cáo niên luận, thực tập, báo cáo khoa học, khoá luận tốt nghiệp. Đồng thời, các trường đại học cần mạnh dạn xoá bỏ cách thức thi, kiểm tra chỉ dựa vào tiêu chí đo lường sự trả bài của sinh viên. Thực tiễn cho thấy, ít công trình báo cáo khoa học sinh viên có liên quan đến những lĩnh vực, môn học được truyền giảng theo phương pháp truyền thống (diễn giải, thậm chí đọc - ghi) và càng không có công trình thuộc lĩnh vực, môn học như vậy đạt giải.
Các trường đại học, tổ chức đoàn, hội cần tôn trọng những sinh hoạt chuyên đề, toạ đàm ở lớp, khoa, nhóm ngành và toàn trường và tổ chức những sinh hoạt này một cách chuyên nghiệp, bài bản, tạo môi trường học thuật, môi trường nghiên cứu trong sinh viên.
Phong trào sinh viên NCKH đã phát triển đến “độ” rất cần có những tác động để chuyển hoá sang một “chất” mới, góp phần đắc lực cho công cuộc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đại học, tạo ưu thế cạnh tranh về nguồn nhân lực cho đất nước khi chúng ta đã là thành viên thứ 150 của WTO.
Nguồn: T/c Hoạt động khoa học, 1/2008, tr 27








