Nâng cao chất lượng đào tạo đại học ở Việt Nam hiện nay
Có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân căn bản chính là sự yếu kém trong quản lý nhà nước về giáo dục đại học và sự yếu kém trong quản lý bản thân các trường đại học, cao đẳng… Tình trạng giáo dục chạy theo số lượng và sức ép về bệnh thành tích vẫn chưa giảm trong khi xã hội, chưa giám sát đầy đủ, chưa có biện pháp xử lý và chấn chỉnh kịp thời. Nhiều vi phạm có tính hệ thống của các trường như tuyển sinh ồ ạt, quá sức; tuyển sinh ngành học chưa xin phép hay chưa đủ khả năng về đảm bảo chất lượng dạy và học, thiếu các tiêu chuẩn căn bản về giáo trình, giảng đường…
Để nâng cao chất lượng giảng dạy đại học, rõ ràng cần có chỉ tiêu hợp lý đầu vào cân đối với nhu cầu xã hội, thực trạng về nguồn lực giảng viên phù hợp từng trường, từng môn cũng như cơ sở vật chất tương ứng. Cần rà soát, quản lý hệ thống trường đại học chỉ có cơ sở dạy học thuê mướn, cắt giảm chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm của các trường đại học tương ứng với số lượng phòng học tại cơ sở, tránh việc mở lan tràn các ngành học mới mà không có giáo viên. Điều này Bộ GD-ĐT cũng đang làm, nhưng các chỉ tiêu đó vẫn còn rất cao so với thực trạng giảng viên và cơ sở vật chất của trường. Bên cạnh đó, các trường PTTH và trường đại học phải thật sự là nơi giúp học sinh có cái nhìn và hiểu một cách cụ thể về ngành nghề để có sự lựa chọn đúng đắn nghề nghiệp tương lai. Đây là việc làm thiết thực nhằm hạn chế việc sinh viên phải làm trái ngành sau khi tốt nghiệp. Điều này đặc biệt quan trọng. Ở các nước có nền giáo dục phát triển, hệ thống trường học luôn có các trung tâm tư vấn, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
Nâng cao chất lượng đào tạo đại học không chỉ là việc kiểm tra chất lượng mà cần phải xây dựng phương án đào tạo cho phù hợp ngay từ các cấp. Muốn vậy, cần xây dựng từ việc biên soạn các giáo trình học tập có chất lượng, có sự kiểm soát chặt chẽ để phù hợp với thực tiễn và có tính trọng tâm cao hơn. Cần nghiêm khắc với cách học đối phó, thụ động của sinh viên trước nền kinh tế đang mở cửa hiện nay bằng cách xây dựng thói quen học đi đôi với hành ngay từ bậc phổ thông. Không ngừng đầu tư trang, thiết bị dạy học hiện đại tiên tiến trên thế giới, đồng thời cập nhật những thông tin mới nhất về kiến thức cho sinh viên. Khuyến kích việc học nhóm của sinh viên, đồng thời phải luôn giao bài tập dưới đạng tiểu luận, dạng bài mang tính chất mở rộng để các em rèn thói quen làm việc trong thư viện cũng như tìm hiểu tài liệu trên mạng điện tử. Chỉ có học thật, thi thật và quản lý sinh viên một cách khoa học thì mới có thể giúp các em tránh khỏi sa ngã vào các tệ nạn xã hội, làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Phối hợp việc quản lý sinh viên giữa nhà trường, gia đình và xã hội; khen thưởng sinh viên có thành tích học tập tốt một cách kịp thời, đúng lúc để mọi người cùng hưởng ứng và noi theo.
Chất lượng giáo dục cần được hiểu một cách đồng bộ. Sự đồng bộ ở đây được hiểu là sự hợp lý, sự logic, là điều kiện tất yếu, là muốn có cái kia, đã làm thế này thì tất yếu phải có kết quả kia, hay muốn có kết quả này thì nhất thiết cần có những điều kiện tối thiểu kia. Nói một cách hài hước là nếu không có quần dài thì không thể thắt cà vạt để đi ra đường, nếu trói tay chân lại thì không thể bơi trong nước. Nếu một nước đất chật người đông thì phải quy hoạch nhà ở chung cư cao tầng; nếu một đất nước kém phát triển thì dù chương trình dân số (chương trình giảm tăng dân số tự nhiên) đã bắt đầu chuyển động theo chiều hướng tích cực thì 10 – 15 năm sau cũng sẽ bùng nổ học sinh đại học; nếu muốn có sự tăng năng suất lao động mang tính đột phá thì phải có cuộc cách mạng về hiện đại hóa tư liệu sản xuất…
Vấn đề quan trọng đặt ra trước các nhà quản lý là phải nhận biết, phải phát hiện được, phải hoạch định được những điều kiện, những yếu tố và đánh giá đúng tầm quan trọng của chúng đến lĩnh vực mình quản lý. Thậm chí phải sắp xếp được thứ tự logic của các yếu tố đó để có kế hoạch đầu tư, kế hoạch thực hiện hợp lý.
Vậy sự đồng bộ đối với chất lượng đào tạo đại học là những điều kiện nào?
Theo khảo sát, chất lượng giáo dục đại học được tổng kết như sau:
Quản lý giáo dục chiếm: 51%
Phương pháp giảng dạy: 22%
Chương trình GDĐT, cơ sở vật chất: 18%
Đánh giá kiểm tra: 9%
Như vậy có thể thấy quản lý quyết định chất lượng giáo dục, nếu có nhà quản lý giỏi, sẽ có những quyết định đúng, sẽ có chiến lược, phương pháp đúng, sẽ có biện pháp đúng để sử dụng giáo viên giỏi, sẽ có cơ chế đúng, lộ trình đúng để có phương pháp giảng dạy, có cơ sở vật chất, có thể thức kiểm tra, đánh giá người học đúng. Nói cách khác, quản lý giáo dục đóng vai trò quyết định hàng đầu đến chất lượng đào tạo.
Một số đề xuất
Quản lý giáo dục nên theo hướng phân cấp đối với các cơ sở đào tạo. Phân cấp ở đây là phân quyền, trao quyền tự chủ cho các trường. Cần phân chia các trường đại học thành các nhóm: chất lượng tốt và trung bình – kém. Đối với các trường đã đạt chất lượng tốt, bộ nên phân cấp toàn diện. Còn những trường có chất lượng trung bình, yếu kém, Bộ GD-ĐT phải quản lý chặt, giám sát kỹ. “Đối với các văn bản pháp quy cần phải dựa trên tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm và trao quyền nhiều hơn cho các trường. Thực tế cho thấy, muốn đòi hỏi dich vụ cao thì đòi hỏi chi phí phải cao và chất lượng giáo dục cũng vậy. Mặt khác, các vấn đề về công khai, kiểm định chất lượng cần thực hiện thưởng phạt công minh thì mới tạo động lực cho các trường phát triển”. Cụ thể:
Thứ nhất,Chương trình đào tạo:
Một chương trình đào tạo thiên lệch không thể không ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, thậm chí ảnh hưởng cả đến quá trình hội nhập giáo dục, xu hướng tất yếu của thời đại hiện nay. Trong năm học 2004-2005, các trường đại học đã xây dựng lại chương trình đào tạo theo hướng dẫn của Bộ GD & ĐT theo tinh thần giảm tải. Điều đó nói lên những nỗ lực rất lớn của Bộ GD & ĐT trong việc cải thiện công tác quản lý giáo dục, song chương trình đó vẫn còn nhiều bất cập. Những môn học thuộc kiến thức ngành và chuyên ngành chỉ được gói gọn trong 55% thời lượng là quá ít. Chịu trách nhiệm chính về khối kiến thức chuyên ngành là cấp bộ môn, nhưng cấp này chỉ được quyền chi phối đến 20% số đơn vị học tập. Vậy đề nghị Bộ GD & ĐT hãy giao thêm quyền cho các trường, trường giao thêm quyền cho cấp bộ môn và như thế mới có điều kiện cho sinh viên được quyền tham gia lựa chọn những kiến thức, môn học mang tính kỹ năng nào mà họ thích.
Thứ hai,Về giáo trình:
Thiếu sách, giáo trình, tài liệu cũng là một sự không đồng bộ với đòi hỏi chất lượng đào tạo cao. Kinh nghiệm của các nước phát triển và mới phát triển như Nhật, Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc…thì nhanh chóng có nhiều tài liệu tham khảo, giáo trình cho sinh viên hãy đầu tư cho dịch thuật song song với việc đầu tư cho tự viết. Kinh nghiệm các nước cũng cho thấy đầu tư cho dịch thuật đem lại kết quả nhanh hơn và hiệu quả cao hơn so với đầu tư tự viết ở các nước kém phát triển, nhanh chóng làm phong phú nguồn tài liệu học tập cho SV. Bên cạnh đó, cần xem xét khả năng nhập khẩu chương trình đào tạo như một số nước đã làm và đã thành công. Hiện nay chúng ta có nhiều sách tham khảo, giáo trình chất lượng chưa cao còn do khâu quản lý, như khâu cấp giấy phép xuất bản, khâu nghiệm thu… và điều đó cũng không thể không ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.
Thứ ba,Về phương pháp giảng dạy:
Hầu như không còn tranh cãi nào về phương pháp giảng dạy như thế nào là có chất lượng. Ai cũng rõ rằng phương pháp giảng dạy chất lượng là phương pháp lấy người học làm trung tâm, là đối thoại, là đặt vấn đề, là tình huống, là thảo luận, là sinh viên phải làm việc nhiều ở nhà và đương nhiên giáo viên cũng cần làm việc nhiều hơn trước khối lượng kiến thức ngày càng nhiều và thông tin cũng nhiều, phải nắm bắt đúng kết quả của sinh viên. Nhưng điều kiện để thực hiện thì không có – sự không đồng bộ không thể khắc phục nếu không có thay đổi gì: đó là Quy mô lớp học. Để phương pháp giảng dạy mới được áp dụng thì quy mô lớp học phải tối đa là 50 SV, lý tưởng là 30 – 35, trong thực tế rất ít có lớp học như vậy, mà có khi lên đến 100 – 150 SV. Những lớp học quá đông SV, việc áp dụng phương tiện giảng dạy hiện đại như dùng đèn chiếu hoặc projector cũng kém hiệu quả (mà SV đã có nhiều phản ánh). Tất nhiên chúng ta đang đứng trước những mâu thuẫn giữa quy mô lớp học, thu nhập của giáo viên và chất lượng đào tạo…! Những bài toán này cũng cần được giải gấp.
Thứ tư,Về nguồn tài chính:
Việt Nam được xem là một trong những quốc gia có chi phí để học đại học, cao học và cả nghiên cứu sinh rẻ nhất thế giới. Nếu so sánh chi phí đó với mức lương công chức, lương tối thiểu thì hợp lý, nhưng nếu với mức học phí hiện tại thì tất yếu sẽ kéo theo hàng loạt sự không đồng bộ: lương giáo viên thấp, nhà trường và cả Nhà nước không có tiền để đầu tư phương tiện thiết bị như phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, cho thư viện, cho phòng đọc… sẽ lại là vòng luẩn quẩn: chất lượng đào tạo thấp, kém hiệu quả.
Vậy, chúng tôi xin đề nghị Bộ GD – ĐT cần nhanh chóng xem xét giải pháp tăng học phí của tất cả các cấp đào tạo từ đại học trở lên. Thứ hai, cần thực sự khuyến khích các nhà đầu tư đào tạo đại học và sau đại học chứ không chỉ dừng lại ở chủ chương như hiện nay, nhanh chóng thực hiện hóa đào tạo đại học, trên cơ sở đó nhanh thực hiện chủ trương giảm tỉ lệ sinh viên hệ ngoài công lập như ở nhiều nước trên thế giới.
Trên đây chỉ là một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đại học ở Việt Nam dù chưa phải là tất cả. Hy vọng đóng góp phần nào vào sự nghiệp cải cách giáo dục, đào tạo tại Việt Nam, tạo điều kiện để Việt Nam có thể bước những bước đầu tiên trên con đường hội nhập quốc tế./.








