Một vài ngộ độc thường gặp
Ngộ độc các chất trừ sâu, diệt cỏ
- Các dẫn chất của photpho hữu cơ:khá nhiều và được sử dụng khá phổ biến trong thuốc trừ sâu như diazinon, leptophos, melathion… Các loại này tác dụng trên côn trùng hoặc động vật có vú do tiếp xúc hoặc ăn cây cỏ đã bị phun các hoá chất nói trên. Trong cơ thể người và các loài động vật có vú, chúng được chuyển hoá nhanh hơn các dẫn chất chlohydrocarbon và có các biểu hiện sau đây:
+ Trên hệ tiêu hoá, gây tăng tiết nước bọt, buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy.
+ Trên hệ hô hấp, gây tăng tiết dịch phế quản, co thắt thanh quản và có thể gây phù phổi cấp;
+ Gây chậm nhịp tim, hạ huyết áp, co đồng tử, chảy nước mắt, giảm thị lực… khi ngộ độc nặng sẽ dẫn đến suy hô hấp, suy tuần hoàn và tử vong nhanh.
- Các hợp chất carbamat:tương đối bền trong môi trường nước. Độc tính tương tự như photpho hữu cơ nên có những biểu hiện lâm sàng tương tự, tuy nhiên thời gian tác dụng ngắn hơn nhiều so với photpho hữu cơ, khoảng cách giữa liều độc tối thiểu và liều chết rộng hơn.
Ngộ độc một số kim loại nặng
Chì: hấp thu vào cơ thể phụ thuộc vào dạng muối chì; chì công nghiệp hấp thụ chủ yếu qua đường hô hấp; chì ở dạng muối vô cơ hấp thu qua đường tiêu hoá khoảng 10%. Khi vào cơ thể, chì gắn với hồng cầu và phân bố rộng rãi vào các tổ chức phần mềm: tuỷ xương, não, thận, tinh hoàn… Phân bố qua nhau thai gây độc cho thai nhi, cuối cùng phân bố ở xương với thời gian bán thải hơn 20 năm.
- Ngộ độc chì vô cơ:Cấp tính xảy ra trong môi trường công nghiệp do công nhân hít phải lượng oxit chì, với biểu hiện đau bụng dữ dội, dẫn đến những rối loạn thần kinh trung ương; mạn tính thường biểu hiện chán ăn, mệt mỏi, rung cơ, đau đầu, sút cân, rối loạn tiêu hoá.
- Ngộ độc chì hữu cơ:thường do nhiên liệu dùng trong các động cơ ô tô. Các chất này dễ bay hơi, tan trong lipid, hấp thụ qua da và đường hô hấp, biểu hiện rối loạn thần kinh trung ương, ảo giác, mất ngủ, đau đầu, kích thích, vật vã…. nặng có thể gây tử vong.
Arsen: được sử dụng rộng rãi trong chất trừ xâu diệt cỏ, diệt nấm, hợp kim bán dẫn,... các dạng có thể gây ngộ độc là arsen nguyên tố, arsen vô cơ, arsen hữu cơ và khí arsin.
- Ngộ độc cấp và bán cấp arsen vô cơ:buồn nôn, nôn dữ dội, đau bụng, kích ứng da, viêm thanh quản, viêm phế quản, có thể có xuất huyết tiêu hoá, hơi thở và phân có mùi Tỏi và mùi tanh kim loại; nếu bệnh nhân sống sót có thể để lại di chứng thần kinh nặng nề.
- Ngộ độc mạn tính: biểu hiện kích ứng da, rụng tóc, nhiễm mỡ gan, sừng hoá ở tay, bàn chân, bệnh thần kinh cảm giác…
- Ngộ độc khí arsin:Chủ yếu qua đường thở, là chất gây tan máu mạnh nhất hiện nay, các hồng cầu bị phá huỷ dẫn đến có hemoglobin trong nước tiểu và gây suy thận cấp, ống thận bị tổn thương, nước tiểu vàng sẫm, đau bụng dữ dội.
Thuỷ ngân: nguyên nhân ngộ độc thường là do tiếp xúc với các chất có thuỷ ngân dùng trong nha khoa, nhiệt kế, các chất trừ sâu diệt cỏ, diệt nấm, diệt mối…
- Ngộ độc cấp:do hít phải ở nồng độ cao, nôn, tổn thương thận, viêm lợi, viêm đường tiêu hoá, rung cơ, có thể có bệnh lý tâm thần.
- Ngộ độc mạn:rối loạn tiêu hoá, viêm lợi, rụng răng, suy thận, rung ngón tay, cánh tay, rối loạn tiểu não, rối loạn tâm thần.
Trước khi tìm nguyên nhân ngộ để giải quyết triệt để thì vấn đề cấp cứu là vấn đề sống còn, bao gồm ba giải pháp chủ yếu:
+ Điều trị hỗ trợ các chức năng sống của cơ thể: trợ hô hấp, trợ tuần hoàn, chống co giật nếu có, xử trí các biến chứng về tim mạch và huyết áp, chống phù nề não và chống nhiễm độc tại chỗ.
+ Làm giảm hấp thu và loại bỏ nhanh các chất độc ra khỏi cơ thể bằng cách:
Đối với ngộ độc đường uống trong vòng 4 giờ đầu. Biện pháp đầu tiên là gây nôn, rửa sạch dạ dày bằng nước muối sinh lý; tuy nhiên, không nên rửa sạch dạ dày cho người uống phải axit, kiềm mạnh hay chất tạo bọt (như xà phòng…). Ngoài ra có thể dùng chất hấp phụ như than hoạt.
Đẩy mạnh thải trừ các chất độc: đây là việc làm rất cần thiết, tuỳ theo chất ngộ độc mà có thể sử dụng thuốc lợi tiểu, gây kiềm hoá nước tiểu hoặc axit hoá nước tiểu, thẩm tách và lọc máu nếu có điều kiện và chỉ định.
+ Và cuối cùng dùng các chất giải độc đặc hiệu tuỳ theo nguyên nhân gây độc.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 353, 1/4/2008, tr 19