Một số vấn đề về bảo hộ phần mềm máy tính hiện nay
Hệ thống pháp luật về bảo hộ PMMT của hầu hết các quốc gia đã xác định PMMT là một loại hình tác phẩm được bảo hộ theo quyền tác giả. Năm 1885, một hội đồng các chuyên gia được WIPO (Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới) và UNESCO triệu tập, đã quyết định lựa chọn quyền tác giả là hình thức phù hợp để bảo hộ PMMT. Kể từ đó, việc bảo hộ PMMT như một tác phẩm văn học được chấp nhận một cách rộng rãi, thể hiện căn cứ pháp lý tại Điều 2 của Công ước Berne.
Quyền tác giả hay bản quyền
Trên thế giới, quyền tác giả phát sinh gắn liền với sự phát triển của công nghệ in. Khi công nghệ in chưa ra đời, các tác phẩm (lúc đó chủ yếu là sách) thường được chép tay, vì thế khả năng sao chép tác phẩm gốc là không nhiều. Khi công nghệ in ra đời, một tác phẩm (quyển sách) có thể dễ dàng được nhân thành nhiều bản. Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm không thể kiểm soát và quản lý được số người đang đọc quyển sách của mình và trong đó có bao nhiêu người đã bỏ tiền ra mua sách được in hợp pháp, còn bao nhiêu người đã mua sách in lậu. Chính vì vậy, các tác giả, chủ sở hữu đã kiến nghị bảo hộ quyền được in ấn và quản lý việc xuất bản, in ấn. Quốc gia đầu tiên ban hành luật về quyền tác giả là nước Anh (năm 1709), nơi khởi đầu của cuộc cách mạng công nghiệp, sau đó là Mỹ (1790), Pháp (1791) và Đức. Như vậy, quyền tác giả phát sinh tại những nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ trước, rồi mới đến các nước theo hệ thống luật lục địa. Mối quan tâm ban đầu của luật về quyền tác giả là việc nhân bản, sao chép các tác phẩm. Chính vì thế, ở các nước theo luật Anh - Mỹ, luật về quyền tác giả còn được gọi là luật về quyền sao chép (copyright, hay bản quyền). Tại các nước theo luật lục địa, luật về quyền tác giả từ khi hình thành lại nhằm đến giá trị nhân thân của tác giả, chính vì thế ở các nước này sử dụng thuật ngữ “quyền tác giả”1. Pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam sử dụng thuật ngữ quyền tác giả. Trong bài viết này, chúng tôi thống nhất sử dụng thuật ngữ “quyền tác giả” và “bản quyền” với cùng một nghĩa như nhau.
Theo các quy định pháp luật về quyền tác giả, quyền tác giả đối với PMMT bao gồm các quyền nhân thân (quyền tinh thần) và quyền tài sản (quyền kinh tế)2, cụ thể là:
Quyền nhân thân gồm: Quyền nhân thân có thể chuyển giao và quyền nhân thân không thể chuyển giao.
Quyền nhân thân không thể chuyển giao, gồm các quyền:
1. Đặt tên cho PMMT;
2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên PMMT; được nêu tên thật hoặc bút danh khi PMMT được công bố, phổ biến, sử dụng;
3. Bảo vệ sự toàn vẹn PMMT, cho phép hoặc không cho phép người khác sửa đổi nội dung PMMT.
Các quyền này được bảo hộ vô thời hạn.
Quyền nhân thân có thể chuyển giao, gồm các quyền:
1. Công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến PMMT của mình;
2. Cho hoặc không cho người khác sử dụng PMMT của mình.
Các quyền này được bảo hộ như các quyền tài sản: Suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả qua đời. Các quyền này cũng không thuộc về tác giả trong trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm, trong trường hợp này quyền nhân thân có thể chuyển giao thuộc về chủ sở hữu tác phẩm. Nhiều nước thường quy định các quyền nhân thân có thể chuyển giao vào nhóm quyền tài sản.
Các quyền tài sản (quyền kinh tế), bao gồm các quyền thuộc về chủ sở hữu PMMT:
1. Được hưởng thù lao khi PMMT được sử dụng;
2. Được hưởng lợi ích vật chất từ việc cho người khác sử dụng PMMT dưới các hình thức sau đây: Sao chép PMMT; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao PMMT; cho thuê bản gốc hoặc bản sao PMMT…
Như vậy, các quyền về tài sản được xác lập nhằm chống lại các hành vi sao chép bất hợp pháp PMMT. Chống sao chép bất hợp pháp ở đây là nhằm bảo hộ thông tin chứa trong các vật mang thông tin, chứ không phải bảo hộ các bản sao.
Thực tế nhức nhối
Hiện nay, hiện tượng xâm phạm bảo hộ PMMT đang diễn ra rất phổ biến và là thực tế nhức nhối không chỉ ở các nước đang phát triển mà cả ở các nước phát triển. Theo số liệu công bố của Liên minh doanh nghiệp phần mềm (BSA): Năm 2004, tỷ lệ vi phạm và tổng giá trị thiệt hại trong việc vi phạm bản quyền phần mềm ở Việt Nam là 92% và 41 triệu USD; ở Mỹ là 22% và 6.496 triệu USD; Nhật Bản là 29% và 1.633 triệu USD; Trung Quốc là 92% và 3.823 triệu USD. Năm 2005, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm toàn cầu là 35% (bằng năm 2004; năm 2003 là 36%); Việt Nam là 90% (cao nhất); Trung Quốc - 86%, Mỹ - 21% (thấp nhất). Năm 2007, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm toàn cầu là 37% (tăng 2%); Việt Nam - 85% (giảm 3% so với năm 2006), nhưng giá trị thiệt hại tăng khá cao, lên đến khoảng 200 triệu USD (năm 2006 là 96 triệu USD)3.
PMMT bảo hộ theo quyền tác giả - Một giải pháp chưa hoàn thiện!
PMMT bảo hộ theo quyền tác giả là bảo hộ hình thức thể hiện của phần mềm chứ không bảo hộ ý tưởng trong phần mềm. Tính sáng tạo được bảo hộ ở đây là sự sáng tạo trong thể hiện (chọn dùng, sắp xếp các mã lệnh, các câu lệnh của ngôn ngữ lập trình...) mang tính “bản gốc” không phụ thuộc vào giá trị của phần mềm. Điều này là không phù hợp với đối tượng PMMT. Vì bản chất PMMT là giải pháp kỹ thuật ứng dụng vào thực tiễn, các bài toán thực tiễn được giải quyết nhờ vào các thuật toán trong phần mềm, còn ngôn ngữ lập trình thể hiện thuật toán là không quan trọng. Giá trị phần mềm nằm ở thuật toán, tương tự như bí mật trong bí quyết kinh doanh. Ngôn ngữ lập trình thể hiện thuật toán của phần mềm không có ý nghĩa “bị đánh cắp” trong thực tiễn. Xét về thuật toán, phần mềm cần phải được bảo hộ như bí mật kinh doanh là phù hợp hơn so với bảo hộ theo quyền tác giả.
Bản chất của PMMT có các đặc tính của một công nghệ (không phải ngẫu nhiên mà người ta lại gọi là công nghệ phần mềm thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin), đặc tính của phần mềm là:
- Tri thức về các giải pháp chế biến, xử lý thông tin tự động bằng máy tính;
- PMMT tồn tại theo vòng đời (chu kỳ): Khảo sát, phân tích, thiết kế, lập trình, ứng dụng, bảo trì, tiêu vong;
- PMMT ứng dụng trong thực tế liên tục được đổi mới;...
Thực tiễn cho thấy, tính thương mại của PMMT luôn gắn liền với các hợp đồng chuyển giao công nghệ. Đây là một thực tế mà luật về quyền tác giả không giải quyết được.
Theo Luật Sở hữu trí tuệ, về quyền tác giả, các quy định về quyền nhân thân, áp dụng để bảo hộ PMMT còn những điểm chưa phù hợp4, có thể thấy đó là:
Thứ nhất, số lượng người tham gia xây dựng phần mềm thường rất lớn, đó là các cá nhân trực tiếp tham gia phân tích,thiết kế, lập trình... nên phần mềm có khi đến hàng ngàn lập trình viên tham gia, nhất là các phần mềm hệ thống, các phần mềm có quy mô, có tính thương mại… Do đó, đảm bảo quyền đứng tên của tất cả các tác giả là không khả thi.
Thứ hai, đặt tên cho PMMT là thuộc quyền nhân thân không thể chuyển giao của tác giả, nhưng thực tế việc đặt tên choPMMT thường là do các tổ chức đầu tư xây dựng phần mềm thực hiện trong một kế hoạch tổng thể xây dựng nhãn hiệu và marketing sản phẩm phần mềm.
Thứ ba, các PMMT phải được cập nhật, nâng cấp thường xuyên do nhu cầu người sử dụng nên yêu cầu bảo vệ sự toànvẹn tác phẩm là không phù hợp, đặc biệt trong các trường hợp liên quan đến các cựu nhân viên có tham gia xây dựng phần mềm. Theo các quy định về quyền tác giả, quyền của tác giả là rất lớn, quyền nhân thân tác giả được bảo hộ đến 50 năm sau khi tác giả qua đời và được thừa kế như một tài sản. Thời hạn bảo hộ như vậy là quá dài so với vòng đời của PMMT. Điểm mấu chốt là chủ sở hữu PMMT muốn phát triển, sửa đổi, công bố ngừng hay hủy bỏ phải được sự đồng ý của tất cả các tác giả. Điều này đồng nghĩa với việc, mỗi khi công ty muốn nâng cấp phần mềm đều phải hỏi ý kiến của các lập trình viên (kể cả lập trình viên này không còn làm việc tại công ty đó nữa) và nếu một trong số họ không đồng ý thì dự án nâng cấp phần mềm coi như phải ngừng. Điều này là khá vô lý.
Lời kết
Theo khảo sát của chúng tôi, hiện nay, tại nhiều quốc gia đã thực hiện cơ chế lựa chọn bảo hộ PMMT hoặc đồng bảo hộ PMMT: Có thể theo quyền tác giả và cũng có thể theo Luật Sáng chế. Một số nước như Mỹ, Nga, Trung Quốc đã ban hành Luật Bản quyền PMMT riêng. Thực tế ở Việt Nam, nếu có được Luật Bản quyền PMMT riêng là tốt nhất, vì PMMT khác hẳn các đối tượng sở hữu trí tuệ khác, nó có thể thoả mãn đặc tính của: Tác phẩm (quyền tác giả); sáng chế, giải pháp hữu ích; nhãn hiệu; bí mật kinh doanh. Nếu để điều chỉnh bảo hộ PMMT trong Luật Sở hữu trí tuệ, hay các chương của Quyền tác giả thì không thể điều chỉnh bảo hộ PMMT như một sáng chế (Mỹ đã cấp bằng sáng chế cho phần mềm Open Martket Corp, Network Sale Systems, Digital Active Advertising...) hay một giải pháp hữu ích, một nhãn hiệu hoặc một bí mật kinh doanh. Đó là những thực tế rất bổ ích cho Việt Nam tham khảo trong quá trình nâng cao hiệu lực, hiệu quả bảo hộ PMMT.
__________
1 Tham khảo thêm: Lê Nết, Quyền Sở hữu trí tuệ - Tập bài giảng, Nhà xuất bản Đại học quốc gia TPHCM, năm 2005.
2 Tham khảo thêm tại các điều luật cụ thể của Luật Sở hữu trí tuệ, 2006.
3 Tham khảo thêm tại: http://www.bsa.org.
4 Phần này, chúng tôi có tham khảo các tài liệu sau:
- Nguyễn Hoàn Thành, Luật Sở hữu trí tuệ và bảo hộ PMMT,
http://www.div.gov.vn/Event/ITWeek14.
- Lữ Thành Long, Bản quyền phần mềm - Hãy tự bảo vệ mình trước khi phải đối đầu với những rắc rối,
http://www.hca.org.vn/tin_tuc/thoi_su/nam2005/thang5/
banquyenphanmem/printing .








