Một số vấn đề pháp lý bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với bí mật kinh doanh
Với chức năng là công cụ điều chỉnh và bảo vệ các quan hệ xã hội tránh khỏi các hành vi xâm phạm, từ lâu pháp luật đã hỗ trợ các thương nhân trong việc bảo vệ bí mật kinh doanh. Ngay từ thời kỳ La Mã cổ đại, Luật La Mã đã ghi nhận nguyên tắc servi corrupti - một nguyên tắc cho phép người chủ nô kiện một người thứ ba nếu người thứ ba xui khiến nô lệ của họ tiết lộ bí mật trong công việc làm ăn kinh doanh của họ. Từ giữa thế kỷ XIX, ở Pháp và Bỉ đã bắt đầu quy định trong Luật 20, ở Đức đã quy định các chế tài dân sự áp dụng đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh. Ở nước ta, trước khi Hiến pháp 1992 ghi nhận quyền tự do kinh doanh, hoạt động kinh doanh ở nước ta ít sôi động và pháp luật liên quan đến kinh doanh cũng còn nhiều hạn chế. Từ năm 1992, khi Hiến pháp năm 1992 ghi nhận quyền tự do kinh doanh, hoạt động kinh doanh phát triển sôi động hơn và pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh cũng hoàn thiện hơn. Những quy định đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với bí mật kinh doanh được ghi nhận tại Nghị định số 54/2000/NĐ-CP. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005 tiếp tục ghi nhận và bảo hộ bí mật kinh doanh với cơ chế bảo hộ cụ thể hơn, hoàn thiện hơn, tạo ra một bước phát triển mới của pháp luật Việt Nam trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và đối với bí mật kinh doanh nói riêng.
1. Về điều kiện được bảo hộ
Theo quy định tại Điều 87 - Luật Sở hữu trí tuệ, một tập hợp thông tin trong hoạt động kinh doanh chỉ được bảo hộ với tư cách là một bí mật kinh doanh khi nó thỏa mãn các điều kiện bảo hộ dưới đây.
Một là, thông tin đó không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được. Hiểu biết thông thường có nghĩa là hiểu biết dễ tiếp nhận, mang tính phổ thông, phổ biến mà hầu hết mọi người trong xã hội đều có thể biết. Thông tin mà không phải là hiểu biết thông thường, nghĩa là loại thông tin mà để tạo ra nó hoặc để tiếp nhận nó, đòi hỏi người tạo ra hay người tiếp nhận nó phải có một nền tảng kiến thức nhất định.
Hơn nữa thông tin đó phải là thông tin mà không dễ dàng có được, nghĩa là, để có được thông tin đó, người ta phải có sự nỗ lực đầu tư về thời gian, về trí tuệ hoặc tiền bạc.
Như vậy, kiến thức phổ thông, kiến thức trong các sách giáo khoa, giáo trình hoặc các loại sách báo khác có bán rộng rãi trên thị trường thì không được bảo hộ với tư cách là một bí mật kinh doanh. Kiến thức mà bất kỳ một người nào có quan tâm đến nó cũng có thể tìm thấy trong các nguồn thông tin, tư liệu công cộng cũng không phải là bí mật kinh doanh và cũng không được bảo hộ với tư cách là bí mật kinh doanh.
Hai là, thông tin đó nếu được sử dụng trong kinh doanh thì sẽ mang lại cho người sử dụng nó một lợi thế nhất định nào đó. Giá trị của bí mật kinh doanh là ở chỗ nó mang lại cho người nào sử dụng nó một lợi thế nhất định. Đó có thể là chất lượng vượt trội hoặc riêng biệt của hàng hóa, sản phẩm. Đó cũng có thể chỉ là thêm một thông tin xác đáng giúp cho việc giải quyết vấn đề chắc chắn hơn. Đó cũng có thể là sự giảm thiểu thời gian và tiền bạc cho quá trình đầu tư nghiên cứu hoặc đơn giản chỉ là để tránh một sự thiệt hại, một sự sai lầm. Và lợi thế mà thông tin mang lại càng nhiều thì giá trị của bí mật kinh doanh càng lớn.
Ba là, thông tin đó phải được chủ sở hữu hoặc người kiểm soát hợp pháp bảo mật bằng các biện pháp cần thiết nhằm tránh sự xâm phạm.Bí mật kinh doanh mang lại lợi thế cho chủ sở hữu hoặc người khác khi họ sử dụng nó. Vì vậy, hơn ai hết chủ sở hữu phải là người phải có các biện pháp bảo vệ cần thiết và thích đáng nhằm tránh sự xâm phạm từ bên ngoài. Sự cần thiết và thích đáng của các biện pháp bảo mật của chủ sở hữu sẽ được các thẩm phán ở Tòa xem xét tùy từng trường hợp cụ thể. Pháp luật chỉ bảo hộ một bí mật kinh doanh nếu chính chủ sở hữu đã thực hiện các biện pháp cần thiết và thích đáng nhưng vẫn chưa ngăn chặn được hành vi xâm phạm của người khác.
Pháp luật bảo hộ bí mật kinh doanh không được áp dụng để bảo hộ các đối tượng dưới đây: bí mật về nhân thân; bí mật về quản lý nhà nước; bí mật về quốc phòng an ninh; thông tin bí mật khác liên quan đến hoạt động kinh doanh. Mặt khác bí mật kinh doanh cũng sẽ không được bảo hộ nếu bí mật kinh doanh đó xâm phạm lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân khác hoặc vi phạm các quy định pháp luật có liên quan.
Những điều kiện để một bí mật kinh doanh nói trên nhìn chung phù hợp với các điều kiện được quy định tại Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định TRIPs về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
2. Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh và các biện pháp bảo vệ bí mật kinh doanh
2.1. Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh
Việc xác định được hành vi vi phạm bí mật kinh doanh và có các biện pháp bảo vệ thích hợp là một trong những vấn đề cơ bản của doanh nghiệp. Trên thực tế, hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh chủ yếu được thể hiện dưới 3 dạng hành vi: tiếp cận và thu thập bất hợp pháp thông tin là bí mật kinh doanh; sử dụng bất hợp pháp thông tin là bí mật kinh doanh; bộc lộ bất hợp pháp thông tin là bí mật kinh doanh.
Tiếp cận, thu thập bất hợp pháp thông tin là bí mật kinh doanh là việc, người không phải là chủ sở hữu của bí mật kinh doanh, không phải là người được sở chủ hữu của bí mật kinh doanh, không phải là người được chủ sở hữu bí mật kinh doanh cho phép nhưng đã thực hiện các hành vi, tiến hành các biện pháp nhằm tiếp cận với thông tin để có được thông tin đó.
Sử dụng bất hợp pháp thông tin là bí mật kinh doanh là việc các chủ thể không phải là chủ sở hữu bí mật kinh doanh, cũng không được chủ sở hữu bí mật kinh doanh cho phép, nhưng vẫn áp dụng thông tin là bí mật kinh doanh để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ trên thị trường hoặc bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu các sản phẩm được sản xuất do áp dụng bí mật kinh doanh.
Bộc lộ bất hợp pháp bí mật kinh doanh là việc một chủ thể không phải là chủ sở hữu và cũng không phải là chủ thể được chủ sở hữu cho phép nhưng có hành vi nhằm công khai thông tin là bí mật kinh doanh cho người khác biết. Sự công khai thông tin là bí mật kinh doanh cho dù là với nhiều người hay một người đều là hành vi bộc lộ bí mật kinh doanh bất hợp pháp.
Trên cơ sở thực tiễn đó, Điều 127 - Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng ghi nhận các hành vi sau đây là hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh:
a) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh đó;
b) Bộc lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó;
c) Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, ép buộc, dụ dỗ, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập hoặc làm bộc lộ bí mật kinh doanh;
d) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh cho người nộp đơn theo thủ tục xin cấp phép kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan có thẩm quyền.
đ) Sử dụng, bộ lộ bí mật kinh doanh dù đã biết hoặc có nghĩa vụ phải biết bí mật kinh doanh đó do người khác thu được có liên quan đến một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b, c và d khoản này.
e) Cơ quan nhà nước, công chức nhà nước có thẩm quyền không thực hiện nghĩa vụ bảo mật dữ liệu thử nghiệm nộp trong quá trình xin cấp phép kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, quyền của chủ sở hữu bí mật kinh doanh không phải là không có giới hạn. Chủ sở hữu bí mật kinh doanh không được ngăn cấm người khác sử dụng, bộc lộ bí mật kinh doanh mà họ thu được từ người khác nhưng không biết và không có nghĩa vụ phải biết đó là bí mật kinh doanh mà người khác thu được một cách bất hợp pháp. Cơ quan nhà nước, công chức nhà nước có thẩm quyền cũng có quyền bộ lộ dữ liệu bí mật nhằm bảo vệ công chúng. Trong một số trường hợp không nhằm mục đích thương mại, người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng dữ liệu bí mật và chủ sở hữu dữ liệu bí mật đó không có quyền ngăn cấm. Chủ sơ hữu bí mật kinh doanh cũng không được ngăn cản người khác sử dụng bí mật kinh doanh nếu như bí mật kinh doanh đó được họ tạo ra một cách độc lập hoặc tạo ra do phân tích, đánh giá sản phẩm mà chủ sở hữu phân phối trên thị trường.
2.2 Cơ chế bảo vệ bí mật kinh doanh
Đồng thời với việc quy định quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu bí mật kinh doanh cũng như quyền và nghĩa vụ của các chủ sở hữu khác trong việc sử dụng bí mật kinh doanh, pháp luật cũng quy định nhiều cơ chế bảo vệ bí mật kinh doanh.
Tự bảo vệ bí mật kinh là cơ chế đầu tiên và quan trọng nhất được pháp luật ghi nhận cho các chủ sở hữu để bảo vệ bí mật kinh doanh. Tự bảo vệ bí mật kinh doanh được hiểu là việc chủ sở hữu tự mình áp dụng mọi biện pháp, cách thức cần thiết và hợp pháp để ngăn chặn hoặc hạn chế sự tiếp cận, thu thập, sử dụng hoặc bộ lộ thông tin là bí mật kinh doanh của các chủ thể khác. Tự bảo vệ còn được hiểu là việc các chủ sở hữu áp dụng mọi biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục các thiệt hại phát sinh do hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh của chủ thể khác. Trong các cơ chế bảo vệ bí mật kinh doanh, đây là cơ chế hữu hiệu nhất vì nó do chính chủ sở hữu thực hiện. Vì lợi ích của chính mình mà chủ sở hữu có những biện pháp thích hợp để bảo vệ bí mật kinh doanh khỏi các hành vi xâm phạm từ bên trong và bên ngoài.
Tự bảo vệ bí mật kinh doanh là quyền của chủ sở hữu. Quyền này được ghi nhận tại Điều 198 - Luật Sở hữu trí tuệ. Để tự bảo vệ bí mật kinh doanh chủ sở hữu cần phải đánh giá đúng giá trị và tiềm lực của bí mật kinh doanh do mình sở hữu để có cơ chế tự bảo vệ thích hợp nhằm chống lại hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh từ bên trong và bên ngoài. Pháp luật cũng thừa nhận cho chủ sở hữu có thể sử dụng các biện pháp công nghệ thích hợp và cần thiết để bảo mật thông tin như: lắp đặt camera giám sát, thiết lập hệ thống còi báo động, thiết lập hệ thống tường lửa… Chủ sở hữu cũng có thể tự mình giao kết với nhân viên những hợp đồng bảo mật khi nhân viên rời khỏi công ty hoặc các trường hợp cần thiết khác.
Trong trường hợp phát hiện ra hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh của các chủ thể khác, chủ sở hữu bí mật kinh doanh có thể yêu cầu hoặc sử dụng các biện pháp cần thiết để buộc họ phải chấm dứt hành vi vi phạm. Nếu các chủ thể có hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh thừa nhận hành vi xâm phạm, thì chủ sở hữu nên giải quyết bằng thương lượng và hòa giải nhằm đảm bảo tính bí mật của nó.
Trong trường hợp không thể giải quyết được thông qua con đường thương lượng, hòa giải. Chủ sở hữu có thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: Tòa án, Thanh tra, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Ủy ban nhân dân các cấp xử lý hành vi xâm phạm thông qua các biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự theo quy định của pháp luật.
Trong các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, việc xử lý bằng biện pháp dân sự là biện pháp có ý nghĩa hơn cả. Xử lý bằng biện pháp dân sự đối với bí mật kinh doanh có ưu điểm là có thể đền bù một cách trực tiếp và tương xứng các thiệt hại của chủ sở hữu do hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh gây ra. Để có thể xử lý hành vi xâm phạm bằng biện pháp dân sự, chủ thể bị xâm phạm bí mật kinh doanh phải nộp đơn khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Tòa án có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh là Tòa án cấp huyện hoặc Tòa án cấp tỉnh nơi cư trú, làm việc của bị đơn nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ chức. Tòa án cấp huyện có thẩm quyền xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh mà bên xâm phạm không nhằm mục đích lợi nhuận. Các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh có mục đích lợi nhuận thuộc thẩm quyền xử lý của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Thông qua việc xử lý hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh bằng biện pháp dân sự sẽ đền bù được những thiệt hại cho chủ sở hữu một cách trực tiếp và kịp thời. Thiệt hại vật chất được đền bù bao gồm: tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại. Tuy nhiên, chủ sở hữu phải tự mình chứng minh hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, chứng minh các biện pháp bảo mật mà mình đã áp dụng đồng thời phải chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra bằng các chứng cứ hợp pháp.
Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh cũng có thể được xử lý bằng biện pháp hành chính. Những hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh dưới đây có thể bị xử lý bằng biện pháp hành chính:
- Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh.
- Hành vi vi phạm các quy định về quản lý nhà nước đối với quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh. Biện pháp hành chính do cơ quan Thanh tra Khoa học và Công nghệ, cơ quan Quản lý thị trường, cơ quan Hải quan hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương áp dụng. Thẩm quyền áp dụng biện pháp hành chính của cơ quan xử lý vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 200 của Luật Sở hữu trí tuệ được quy định cụ thể như sau:
- Cơ quan Thanh tra Khoa học và Công nghệ có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm hành chính về bí mật kinh doanh xảy ra trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, khai thác, quảng cáo, lưu thông, trừ hành vi xảy ra trong xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.
- Cơ quan Quản lý thị trường có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh xảy ra trong lưu thông hàng hóa và kinh doanh thương mại trên thị trường.
- Cơ quan Hải quan có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm về sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh xảy ra trong xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.
- Cơ quan Công an có thẩm quyền phát hiện, xác minh, thu thập thông tin, chứng cứ của hành vi vi phạm về sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh và cung cấp cho các cơ quan xử lý vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều này và xử lý các hành vi vi phạm về sở hữu công nghiệp;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm về sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh xảy ra tại địa phương mà mức phạt, hình thức xử phạt, biện pháp xử lý áp dụng đối với hành vi đó vượt quá thẩm quyền của các cơ quan Thanh tra Khoa học và Công nghệ, cơ quan Quản lý thị trường, cơ quan Hải quan.
Khác với các biện pháp xử lý hành chính thông thường, việc xử lý hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh bằng biện pháp hành chính chỉ được tiến hành khi có đơn yêu cầu của bên bị thiệt hại.
Biện pháp xử lý hành chính được áp dụng để xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh không làm triệt tiêu yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh gây ra. Do đó, các chủ thể bị xâm phạm bí mật kinh doanh có thể yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại.
Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh nếu có đủ yếu tố cầu thành tội phạm thì có thể bị xử lý bằng biện pháp hình sự. Việc xử lý bằng biện pháp hình sự đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh phải được tòa án có thẩm quyền áp dụng theo quy định của pháp luật Tố tụng HÌnh sự.
Như vậy, pháp luật Việt Nam hiện nay đã có một cơ chế khá hoàn chỉnh để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với bí mật kinh doanh của các thương nhân. Tuy vậy, trên thực tế các thương nhân ở Việt Nam dường như vẫn còn rất xa lạ với việc sử dụng pháp luật để bảo vệ bí mật kinh doanh, sử dụng quy trình tố tụng tòa án để bảo vệ bí mật kinh doanh của họ. Điều này cũng dễ dàng được lý giải bới tính bí mật của loại quy định nhằm bảo hộ bí mật kinh đang và sẽ tạo ra một cơ chế bảo hộ đủ mạnh để các thương nhân có thể sử dụng nhằm bảo vệ bí mật kinh doanh của họ.