Một số mô hình khai thác khoáng sản bền vững trên thế giới
Ngành công nghiệp khoáng sản trên thế giới bất đầu đề cập đến phát triển bền vững vào khoảng 1996 tại các cuộc họp của Hội đồng Kim loại và Môi trường Quốc tế (ICME), một tổ chức gồm 30 công ty khai khoáng lớn quốc tế có trụ sở đóng tại ottawa, Canada. Năm 2000, một Hiến chương Phát triển bền vững cho ngành khai khoáng được soạn thảo và được Hội đồng ICME thông qua Hiến chương này, là một công cụ thông tin xã hội nhưng lại không đủ để làm thay đổi những quan điểm chống đối trong ngành công nghiệp.
Khai khoáng bền vững gồm có 6 vấn đế chủ yếu: Quản lý chất thải (đất đá thải, quặng đuôi, các chất thải độc hại); quản lý năng lượng; trao đổi thông tin khủng hoảng; phối hợp với các tổ chức, cá nhân bên ngoài khu mỏ; quan hệ với người dân bản địa; đa dạng sinh học.
Để đảm bảo thực hiện hiệu quản những vấn đề trên, người ta xây dựng nên những công cụ như là hệ thống các biện pháp thực hiện, hệ thống kiểm tra, báo cáo thực hiện, hướng dẫn báo cáo, biên bản đánh giá và hướng dẫn kỹ thuật.
Phát triển bền vững đối với các công ty khai khoáng là phải đề ra đuợc những giải pháp để thực hiện khai thác bền vững như: Lôi kéo cộng đồng quan tâm đến xác định vị trí, mặt bằng mỏ, nhà máy tuyển rửa và thực hiện những sáng kiến khai thác bền vững; tìm kiếm, cam kết và hỗ trợ đối thoại về sản xuất kinh doanh của họ; khuyến khích thực hiện xuyên suốt trong công ty để đạt được quản lý tài nguyên bền vững; tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh với độ hoàn hảo cao, minh bạch và tinh thần trách nhiệm; bảo vệ sức khỏe, an toàn cho người lao động và cộng đồng, đóng góp vào sáng kiến nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh, sử dụng và tái sử dụng khoáng sản một cách an toàn thân thiện với môi trường; tìm cách giảm thiểu đến mức thấp nhất ảnh hưởng của hoạt động sản xuất đến môi trường và đa dạng sinh học thông qua các bước phát triển, từ thăm dò đến đóng cửa mỏ; Hợp tác với cộng đồng để họ quan tâm phát biểu những vấn đề liên quan đến các mỏ bị bỏ hoang và các mỏ đã khai thác hết quặng; Tiếp tục hoàn thiện điều hành thông qua ứng dụng tốt nhất trong mọi góc cạnh của hoạt động sản xuất...
Mô hình Công ty than Illawarra giảm sử dụng nước lớn nhất Sydney .
Công ty than Illawarra của BHP Billiton khai thác hầm lò tại mỏ ở vùng Illawarra và Wollondilly, cách Sydneygần 80 km về phía Nam . Sydney thiếu nước và người dân ở đây phải tuân theo những quy định tiết kiệm sử dụng nước. Mỏ Appin sử dụng một lượng nước đáng kể, khoảng 1.600 m3 mỗi ngày. Công ty phải tìm cách giảm thiểu sử dụng nước. Nằm trong chiến lược giảm tiêu thụ nước, một nhà máy lọc thấm ngược trị giá 6 triệu USD được xây dựng và tái sử dụng 2.300m3 nước mỗi ngày.
Năm 2007, Công ty cấp nước Sydney công nhận thành quả này đã giảm được 660 m3 nước sạch mỗi ngày và cấp cho công ty Illawarra giải thưởng giảm sử dụng khối luợng nước lớn nhất. Công ty Illawarra có ba mỏ là Appin, Appin/West, West Cliff và Dendrobium – và hai mỏ chuẩn bị đi vào khai thác – West Cliff và Port Kembla. Công ty sử dụng 1.300 lao động trực tiếp để khai thác than mỡ chất lượng cao.
Mở mỏ trong năm 1962, mỏ Appin Colliery là một trong những mỏ đầu tiên ở Úc áp dụng công nghệ khai thác cột dài theo phương ở độ sâu 550m, khai thác than mỡ cứng, chất lượng cao làm từ mạch than Bullin. Dập bụi và làm mát là những khâu sử dụng nhiều nước nhất.
Bằng cách chuyển hóa nước ngầm nhiễm muối nhẹ để sử dụng lại tại chỗ và cấp cho các mỏ gần kề, nhà máy có thể giảm lượng nước ngọt lấy từ Công ty cấp nước Sydney tới 2.300 m3 nước mỗi ngày. Hiện nay, nhà máy vận hành với công suất 1.450 – 1.800 m3/ ngày. Nhà máy nâng cao chất lượng và giảm độ mặn của nước trong mỏ và cho chảy vào sông Nepean . Nước muối hiện tại được chuyển đến một điểm xả, tuy nhiên nhà máy có kế hoạch làm muối là sản phẩm phụ của mình để bán.
Nhà máy lọc nước hiện đại của công ty là nhà máy đầu tiên loại này ở Illawarra, áp dụng công nghệ và chu trình hiện đại đem lại lợi ích lâu dài cho khai thác mỏ, cho cộng đồng và môi trường xung quanh. Công ty sẽ tiếp tục tăng lượng nước tái chế và thu hồi lại, cũng sẽ tìm kiếm những công nghệ để tiết kiệm nước ở mỏ than này.
Tái sử dụng đất để có thu nhập, bảo vệ môi trường cho cộng đồng Guinea
Trồng cây hạt điều tại mỏ khai thác cát trước đây đã đem lại thu nhập bền vững cho những người phụ nữ của một cộng đồng Guinea hẻo lánh, đồng thời, cũng bảo vệ môi trưòng cho tất cả đất đai và người dân ở đây.
Cuối năm 2005, quỹ Alcoa cung cấp vốn cho Hội Phụ nữ để khôi phục 10 ha mỏ cát. Mỏ cát được khai thác để lấy cát xây nhà và các công trình xây dựng khác. Quá trình khai thác mỏ đã phá hủy rừng, đất rừng ở đây và gây ra sự xói mòn đất, khai thác lộ thiên cũng rất nguy hiểm cho cả người lẫn súc vật. Nhiều tai nạn và tử vong đã xảy ra bởi những hố rãnh khai thác này.
Trồng cây không chỉ khôi phục hệ thực vật và bảo vệ môi trường mà còn đem lại thu nhập bền vững từ việc bán hạt điều. Phụ nữ của cộng đồng ở Bintimodia chịu trách nhiệm chăm sóc cây và thu hoạch hạt mỗi năm. Thu nhập được phân phối cho các thành viên tham gia.
Mô hình Alcoa tiếp tục giữ vai trò đi đầu về phục hồi đất ở Úc:
Alcoa được coi là Công ty đi đầu trong phục hồi vùng mỏ tại bang Tây Úc và bang Victoria . Tại Tây Úc, Alcoa đã khôi phục 430,2 ha đất sau khi khai thác quặng mỏ. Mục tiêu chủ yếu của chương trình phục hồi là gây dựng lại hệ sinh thái rừng bạch đàn vốn có ở đây trước khi khai thác. Một cấu thành cơ bản của mục tiêu này là phục hồi 100% độ phong phú thực vật của rừng bạch đàn.
Khu vực phục hồi lại được kiểm tra sau 15 tháng để so sánh độ phong phú thực vật với các khu vực không có khai thác gần đó. Độ phong phú thực vật này thay đổi từng năm bởi điều kiện của các mùa trong năm làm ảnh hưởng đến mức độ gieo hạt trong lớp đất bề mặt và tỉ lệ mọc mầm. Kiểm tra cho thấy đạt được 96% độ phong phú thực vật trong khu vực khôi phục.
Khôi phục hệ động vật là một yếu tố quan trọng khác trong phục hồi hệ sinh thái. Kiểm tra hệ động vật tại khu vực phục hồi cho thấy 100% loài có vú, 90% loài chim và 78% loài bò sát đã đến định cư tại khu vực này. Một yếu tố quan trọng khác đã thành công trong chương trình phục hồi vùng đất mỏ là liên kết với kế hoạch khai thác. Công việc khôi phục được giám đốc sản xuất điều hành và mục tiêu là độ phong phú của các hệ động thực vật được đưa vào mục tiêu sản xuất.
Từ khi bắt đầu khai thác năm 1963, Alcoa đã khôi phục được 12.594 ha ở Tây Úc và thu dọn 15.222 ha khác. Trong năm 2005, Alcoa khôi phục được 5,6 ha tại Anglesea. Kiểm tra sau 18 tháng khôi phục cho thấy độ phong phú thực vật cao hơn so với khu vực hoang không khai thác gần đấy.
Chương trình khôi phục Anglesea trong năm 2006 tập trung vào khu vực đã được khôi phục lần đầu hơn 20 năm trước, trồng loại cấy vốn không có ở đây. Khu vực này đã được thu dọn sạch và được khôi phục bằng cách sử dụng những kĩ thuật khôi phục mới, bao gồm chuyển đổi trực tiếp lớp đất bề mặt để kích thích sự nảy mầm trở lại của thực vật bản địa.
Trong năm 2005, Chính quyền bang Victoria công nhận thành công của chương trình khôi phục mỏ Anglesea, trao phần thưởng Strzelecki cho thành công trên. Chương trình Tây Úc được Chương trình môi trường của Liên Hiệp Quốc và Hiệp hội Quốc tế về khôi phục sinh thái công nhận là một trong những chương trình khôi phục sinh thái tốt nhất trên thế giới.
Mô hình cam kết với cộng đồng địa phương ở tỉnh Mondulkiri, Campuchia:
Trong tháng 9 – 2006, BHP Billilnton và Mitsubisi Corporation ký một thỏa thuận thăm dò khoáng sản với chính phủ Hoàng gia Campuchia. Thỏa thuận cho phép thăm dò bauxit và đánh giá tiềm năng để xây dựng một nhà máy luyện alumin ở nước này.
Camkết trách nhiệm chủ yếu của nhà máy đầu tư là hỗ trợ cộng đồng địa phương về y tế, an toàn và môi trường. Camkết này được thực hiện theo chuẩn mực quốc tế, kết hợp với các luật pháp và tiêu chuẩn quốc tế. Thực sự thì ở đất nước này còn thiếu nhiều các quy định luật pháp hoặc những quy định đã có còn thiếu tính chặt chẽ.
Campuchia là thách thức lớn đối với BHP Billiton, bởi đất nước đã trải qua cuộc chiến tranh thảm khốc và nạn diệt chủng kéo dài nhiều thập kỷ. Mondulkiri là tỉnh lớn nhất và dân cư phân tán nhất của Campuchia. Những vấn đề này đã ảnh hưởng đến phát triển của tỉnh và làm cho người dân càng nghèo khó. Trước khi tiến hành thăm dò, một đánh giá tác động xã hội và môi trường thực hiện có tham khảo ý kiến của cộng đồng địa phương, chính quyền và các tổ chức chính phủ. Bản nghiên cứu tập trung vào các nội dung y tế, an toàn và môi trường mà cộng đồng đang đối mặt ở tỉnh này và BHP Billiton có thể làm tốt nhất như thế nào trong khi hạn chế được các tác động. Xác định được những thách thức như sau: Giảm thiểu rủi ro do bom mìn của chiến tranh để lại. Các nhóm chuyên gia tháo gỡ mìn phải giáo dục và nâng cao nhận thức về nguy hiểm do nổ bom mìn cho cộng đồng; Tăng cường tiếp cận dịch vụ y tế địa phương đối với cộng đồng nghèo, coi đây là một phần của chương trình bền vững nhằm đáp ứng nhu cầu y tế; Hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ trong việc thực hiện chương trình giáo dục và huấn luyện y tế, quản lý tài nguyên và nông nghiệp bền vững; Đem lại công ăn việc làm và huấn luỵện tay nghề cho dân địa phương. Dự án tiến hành đánh giá tác động môi trường và xã hội, bắt đầu tuyển người địa phương để huấn luyện. Phối hợp chặt chẽ với Bộ Năng lượng và Mỏ (MIME), Bộ này cử các nhà địa chất công tác tại hiện trường và với Trung tâm khai mỏ Campuchia (CMAC) nhằm giảm các rủi ro đến mức tối thiểu.
Cùng với cộng đồng triển khai 3 dự án chủ yếu: Hỗ trợ tháo gỡ bom mìn để làm giảm rủi ro và tổ chức đào tạo cho cả người trong và ngoài khu vực dự án ở tỉnh Mondulkiri. Trước đây, người địa phương tìm cách tháo gỡ bom mìn chưa nổ để đưa ra khỏi cộng đồng hoặc bán phế liệu, nghề nguy hiểm này đã dẫn tới những tai nạn nghiêm trọng.Tập huấn cảnh giới bom mìn của CMC bao gồm loại trừ và tháo gỡ những bộ phận nguy hiểm đã làm rủi ro và nâmg cao tính an toàn cho cộng đồng; Hỗ trợ cộng đồng tiếp cận với y tế thông qua giáo dục và phát triển ý thức làm chủ thông qua tổ chức Health Net International giúp nâng cao chăm sóc sức khỏe đối với người dân, nâng cấp các trạm y tế vùng sâu, đào tạo đội ngũ y tế địa phương, cung cấp các thiết bị để tiếp cận và làm việc với các bộ tộc thiểu số vùng sâu. Bộ Giáo dục Campuchia chọn 139 trẻ em kém phát triển và mồ côi cho tham gia một dự án giáo dục, dự án này nhằm hướng cho các em tới một tương lai trở thành những thành viên của gia đình và cộng đồng ở tỉnh Mondulkiri.
Thông qua Hội Chữ thập đỏ Đan Mạch làm việc ở Campuchia để nâmg cao dân trí, cung cấp nước sạch cho cộng đồng. Tập trung cung cấp thiết bị lọc nước an toàn, huấn kuyện và cung cấp thiết bị lọc nước cho các gia đình và thông qua mạng lưới Hội chữ thập đỏ đào tạo tình nguyện viên, cùng tổ chức đào tạo y tế.
Mô hình nuôi dê trên đất đã khôi phục sau khi khai thác bauxit:
Viện Bauxite Jamaica và viện Inter – American về hợp tác Nông nghiệp cùng hợp tác trong một dự án 5 năm phát triển nuôi dê thịt trị giá 3,3 triệu USD trên mảnh đất được khôi phục sau khi khai thác bauxit ở Mocho, Clarendon, Jamaica.
Mục tiêu của dự án là thúc đẩy ngành nông nghiệp được coi là một tiêu chí cho phát triển bền vững và đào tạo kỹ năng cần thiết để tạo ra nguồn thu nhập cho dân cư ở Mocho. Dê là nguồn cung cấp thịt quan trọng ở Jamaica và phải nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu. Mỗi năm, nước này nhập khoảng 4.500 tấn thịt dê trị giá 4 triệu USD. Nông dân được học cách chăn nuôi động vật và quay vòng đàn gia súc. Trong một cố gắng đảm bảo tính liên tục, những kiến thức thu được được chuyển rộng rãi tới cộng đồng thông qua các trường học, nơi mà các sinh viên học cách chăn nuôi gia súc hiện đại.
Bắt đầu từ 2001, dự án nuôi dê bao gồm 11 nông dân, 154 con dê và 15 ha đất đã được khôi phục. Sau đó thu hút thêm 34 nông dân trong năm 2005 khi mà dự án được chuyển giao cho cộng đồng tự điều hành để giúp cư dân duy trì họat động dưới hình thức hợp tác xã. Dự án này không chỉ cung cấp thịt mà còn sữa, phomat dê cho cư dân. Hiện nay, tại đây đã phát triển đàn dê lớn , sản xuất ra lượng sữa dồi dào.
Mô hình Mỏ than Cerrejon, Canada :
Công ty Cerrejon của 3 công ty American, Xstrata Coal và BHP Billiton ở vùng đông bắc Columbia sử dụng hơn 5.000 lao dộng khai thác than nhiệt trị cao. Trong năm 2007, mỏ Cerrejon đã nộp thuế 180 triệu USD cho bang Columbia cùng với khoản tiền thuế thuê mỏ là 130 triệu USD. Tháng 7 – 2007, Công ty này được thông báo rằng OECD nhận được một đơn kiện về việc mỏ than này vi phạm hướng dẫn của OECD đối với công ty quốc gia. OECD yêu cầu có được một đánh giá xã hội độc lập về những cam kết xã hội hiện tại và trước đây của mỏ và những vấn đề xã hội trước khi tiến hành đánh giá.
Diễn đàn để đánh giá độc lập được thành lập, được sự hỗ trợ bởi Social Capital Group của Peru trong công việc nghiên cứu và đã tiến hành công việc một cách khẩn trương với các cộng đồng địa phương và các thành viên quốc tế. Báo cáo đưa ra một số những lĩnh vực đã làm tốt ở mỏ Cerrejon bao gồm:
- Đóng góp cho nền kinh tế quốc gia và địa phương; Những cam kết của mỏ về việc đóng góp cho phát triển bền vững của cộng đồng địa phương; Chương trình đào tạo về quyền con người cho người lao động, đại diện quân đội và công an; Mục tiêu nâng cao tiêu chuẩn điều hành trong lĩnh vực khai khoáng.
Báo cáo cũng xác định những lĩnh vực mà mỏ có thể phát huy hơn nữa công tác xã hội. 11/4/2008, Cerrejon đã chuyển OECD Bản báo cáo đầy đủ với diễn giải tổng thể về chính sách, trách nhiệm xã hội của mỏ, một tổng quan những khuyến nghị cách nhìn nhận của diễn đàn và mô tả những hành động của mỏ cam kết thực hiện.
Mô hình đóng góp cho chương trình xã hội thông qua Quỹ khai khoáng Anymana:
Tháng 12/2006, Chích phủ Peru và ngành khai khoáng nước này thiết lập một chương trình đóng góp chung 5 năm, nhằm mục đích tăng cường sự hỗ trợ từ các doanh nghiệp cho các chương trình xã hội ở những vùng nghèo khó nhất bằng hoạt động khai khoáng.
Công ty mỏ Antaimina trở thành công ty đầu tiên ký một thỏa thuận riêng biệt với chính quyền. Công ty đóng góp 3% lợi nhuận trước thuế vào quỹ khai khoáng Anymana. Với số tiền đóng góp ban đầu hơn 64 triệu USD, chiếm tới 40% tổng đóng góp của ngành khai khoáng giúp quỹ hoạt động.
Công ty Antaimina sản xuất tinh quặng đồng bằng công nghệ lộ thiên ở vùng Andes, cách thủ đô Lima khoảng 270 km về phía bắc. Tháng 2 – 2007, Antimana lập các ủy ban đóng ở tỉnh Huaraz để tiếp nhận thông tin và đưa ra những khuyến nghị liên quan đến các dự án và chương trình được thực hiện bằng nguồn tiền từ Quỹ này. Năm 2007, Quỹ đã hỗ trợ chương trình y tế và dinh dưỡng một số sau đây:
Chương trình Ally Micuy giúp cắt giảm suy dinh dưỡng thường xuyên của trẻ em, phòng ngừa các vấn đề y tế và khuyến khích chăm sóc sức khỏe trong vùng Ancash, mỗi năm đầu tư hơn 8 triệu USD.
Chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em giúp giảm thiểu tử vong bằng cách tăng cường dịch vụ cấp cứu và sinh nở. Chương trình nâng cao chất lượng dịch vụ y tế ban đầu với việc đánh giá nhu cầu hạ tầng cơ sở y tế .
Chương trình nâng cao giáo dục: Một nguyên nhân khiến cho các học sinh yếu kém là thiếu thiết bị và đồ dùng dạy học. Quỹ đã cung cấp bàn học, bàn giáo viên, thư viện, sửa chữa trường học.
Chương trình nâng cao tay nghề: Quỹ hỗ trợ tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập bằng cách tăng cường số nhân lực hiện có và tạo ra số mới, kinh doanh thúc đẩy buôn bán và sản xuất, hỗ trợ sản xuất địa phương với thị trường toàn quốc và quốc tế.
Tăng cường công tác quản lý: lĩnh vực thứ 4 mà Quỹ đầu tư là các chương trình tăng cường quản lý địa phương và giúp trang bị cho họ thu được những lợi ích từ ngành công nghiệp khoáng sản Peru mà Quỹ đầu tư vào việc thiết lập các đơn vị quản lý thành phố để cung cấp tư vấn kỹ thuật cho chính quyền huyện và tỉnh, hỗ trợ việc ứng dụng đối với Quỹ đầu tư ngành khai khoáng Peru, nâng cấp trình độ quản lý cho các viên chức thành phố, lên kế hoạch phát triển vùng và cấp tài chính các dự án sản xuất và xã hội.
Tài nguyên khoáng sản càng trở nên khan hiếm và quan trọng đối với con người, của tất cả các quốc gia. Cần nghiên cứu những mô hình để quản lý, khai thác hợp lý, bền vững tài nguyên khoáng sản. Đó là chiến lược hiện tại và tương lai.