Một số độc tính của thuốc chống lao
Phản ứng mẫn cảm với thuốc chống lao là một phản ứng đặc dị (idiosyncratic reaction), có thể xảy ra ngay trong tuần dùng thuốc đầu tiên (pyrazinamid), cũng có thể chậm hơn (rifampicin, isoniazid) nhưng thường nằm trong giai đoạn dùng thuốc tấn công. Có 5-14% người bệnh bị phản ứng này. Trong các trường hợp mẫn cảm thì mẫn cảm da chiếm khoảng 4%. Mẫn cảm da thường ở dạng phát ban nhẹ (rash) chỉ thoáng qua, nhưng cũng có lúc ở dạng nặng (hội chứng Stevens - Johnson, có thể dẫn đến tử vong), có khi sốt, có ảnh hưởng đến các cơ quan khác (viêm da, đau khớp, hạch to và những bất thường về máu). Hầu hết thuốc chống lao đều có thể gây ra phản ứng mẫn cảm nhưng nhiều nhất là pyrazinamid.
Phản ứng mẫn cảm xảy ra khi đang dùng nhiều loại thuốc trong phác đồ “đa hóa trị liệu”. Có thể tạm ngưng dùng thuốc theo phác đồ, cho dùng từng thứ một để “dò tìm” thuốc nào gây ra phản ứng mẫn cảm. Sau đó giải mẫn cảm bằng cách cho dùng thuốc đó theo liều tăng dần từ thấp đến cao, cho đến khi đạt đến liều điều trị mà không gây ra phản ứng quá mẫn là được. Thí dụ nếu isoniazid gây mẫn cảm thì cho dùng isoniazid liều mỗi ngày bắt đầu ngày thứ nhất 12,5mg, tăng dần lên 25-50-100mg rồi 300mg (dùng 2 lần), cuối cùng ở ngày thứ 12 là 300mg (dùng một lần). Sau khi giải mẫn cảm sẽ tiếp tục lại phác đồ điều trị như cũ (hay có thay đổi chút ít cho phù hợp).
Nhiễm độc gan do thuốc chống lao
Trong quá trình chuyển hóa, thuốc chống lao có thể tạo ra những chất độc tác động lên protein của tế bào làm hoại tử tế bào hoặc tạo ra các phức hợp kháng nguyên kích thích tế bào lympho T đưa đến phản ứng miễn dịch làm tổn thương gan ở các mức độ khác nhau (gọi chung là nhiễm độc gan). Phần lớn thuốc chống lao gây nhiễm độc gan là do đặc dị (idiosyncratic) hoặc do quá mẫn (hypersensitivity).
Nhiễm độc gan do thuốc chống lao xảy ra trong 9 tuần đầu nhưng cũng có thể xảy ra sau 20 tuần dùng thuốc và thường xảy ra trong giai đoạn dùng thuốc tấn công. Tỷ lệ người bệnh dùng thuốc chống lao bị nhiễm độc gan thay đổi trong khoảng 0,6%-3%. Tác nhân nhiễm độc gan thường là rifampicin, isoniazid, pyrazinamid. Trong số người bệnh bị nhiễm độc gan thì có tới 82% do pyrazinamid, 9% do isoniazid và chỉ 1% do rifampicin.
Nhiễm độc gan do thuốc chống lao có các dấu hiệu mà người bệnh có thể tự nhận biết như: mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn, nôn, vàng da, nước tiểu sậm, ngứa, phân nhạt màu, rối loạn dạ dày ruột, nổi ban da, sốt hoặc được thầy thuốc khám thấy (như tăng nhạy cảm hạ sườn phải, gan lớn, lách to, cổ trướng, lú lẫn, hôn mê). Đồng thời xét nghiệm sẽ thấy chỉ số enzym gan AST/ALT (aspartat aminotransferase/alanin aminotransferase) tăng gấp 2,5 có khi gấp 5 lần chỉ số cơ bản. Có khoảng 14%-30% điều trị lao với phác đồ có pyrazinamid, isoniazid, rifampicin có tăng enzym gan nhưng cũng có 6% người khỏe mạnh cũng có bất thường về enzym. Ngoài ra chỉ số bilirubin tăng, riêng chỉ số albumin máu vẫn ở mức bình thường. Để kết luận bị nhiễm độc gan do thuốc chống lao cần phải dựa vào các dấu hiệu lâm sàng và xét nghiệm chứ không chỉ dựa đơn thuần vào một yếu tố.
Trường hợp thuận lợi để thuốc chống lao gây ra nhiễm độc gan là người trên 35 tuổi (chiếm 45%), người nghiện rượu (45%) và người có tiền căn nhiễm virut viêm gan B có HBsAg(+) (18%).
Người bệnh bị nhiễm độc gan khi dùng nhiều thuốc trong phác đồ “đa hóa trị liệu” phải “dò tìm” thuốc nào gây nhiễm độc gan, bằng cách cho người bệnh ngừng dùng thuốc. Điều trị triệu chứng cho đến khi trị số các enzym gan trở lại bình thường. Sau đó, cho dùng thử từng loại với liều đủ trong thời gian khoảng một tuần, nếu thuốc nào làm tăng enzym gan thì thuốc đó được xem là thuốc gây nhiễm độc gan. Khi đã xác định được thuốc gây nhiễm độc gan thì thầy thuốc có những xử lý thích hợp. Một trong những cách xử lý đó có thể loại bỏ hay thay thế thuốc gây nhiễm độc gan bằng một thứ thuốc khác nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc mấu chốt trong “đa hóa trị liệu” là người bệnh được dùng nhiều loại thuốc chống lao cùng một lúc trong giai đoạn tấn công.
Kết luận
Phản ứng mẫn cảm và nhiễm độc gan là hai tác dụng phụ do thuốc chống lao gây ra thường gặp, hiếm khi gây nguy hiểm, nhưng trở ngại cho việc dùng thuốc, nếu không được xử lý kịp thời sẽ không thể tiếp tục liệu trình điều trị chuẩn. Việc xác định, xử lý phải do các thầy thuốc chuyên khoa. Tuy nhiên, người bệnh cần được tư vấn trước để chủ động giảm bớt những điều kiện thuận lợi gây nhiễm độc, đồng thời tự theo dõi diễn biến trong quá trình dùng thuốc, báo cáo kịp thời cho thầy thuốc xử lý, yên tâm điều trị theo hướng dẫn, tránh bỏ dở liệu trình. Bỏ dở liệu trình sẽ không chữa khỏi làm bệnh nặng thêm, lây lan, tạo thêm những vi khuẩn kháng thuốc có hại không chỉ cho bản thân mà cả cộng đồng.
Nguồn: Sức khoẻ & Đời sống, số 938, ngày28/03/2006