Một số đề xuất về bảo vệ môi trường trong khai thác than
Nếu ngay từ bây giờ không có những kế sách mạnh mẽ, thỏa đáng về BVMT trong khai thác than, môi trường vùng mỏ trong tương lai sẽ còn tồi tệ hơn, gây những thảm họa khôn lường cho hệ sinh thái và đời sống kinh tế - xã hội trong vùng. Để góp phần giải quyết cơ bản môi trường vùng mỏ, đáp ứng yêu cầu xanh - sạch - đẹp, ngoài việc tiếp tục thực hiện các biện pháp từ trước tới nay, cần có một số giải pháp về công cụ kinh tế và cơ chế chính sách.
Lập quy hoạch quản lý và BVMT ở các vùng than
Để có cơ sở triển khai thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ và hiệu quả các hoạt động BVMT tại các mỏ, các vùng cũng như trong phạm vi toàn ngành và vùng lãnh thổ thuộc địa bàn ngành than, trước hết cần khẩn trương triển khai lập Quy hoạch quản lý, BVMT phù hợp với quy hoạch phát triển ngành than đến năm 2015 - triển vọng đến năm 2025 và Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương liên quan với các nội dung và giải pháp lớn. Đó là phân vùng quy hoạch BVMT căn cứ vào yêu cầu BVMT đối với từng vùng/ khu vực có thể phân ra vùng cấm các hoạt động khai thác, kinh doanh than; vùng BVMT đặc biệt; vùng BVMT thông thường; các khu vực đặc biệt khác như công trình/ khu vực khai thác cần bảo tồn hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng sau khi kết thúc hoạt động. Căn cứ vào các vùng BVMT đã được phân định cần xác định các tiêu chí, tiêu chuẩn BVMT phù hợp với từng vùng, từ đó đề xuất các hoạt động, các dự án, các giải pháp BVMT cần thực hiện để đạt được các tiêu chuẩn môi trường; xác lập các giải pháp môi trường trên cơ sở phân vùng quy hoạch, kế hoạch sản xuất than, diện tích khai thác, thời gian tồn tại, tải lượng ô nhiễm dự kiến trong tương lai, các tiêu chuẩn môi trường, các số liệu khảo sát thực địa. Xác lập các giải pháp BVMT cụ thể theo các lĩnh vực sau: Kiểm soát bụi, khí thải, tiếng ồn và độ rung; cải tạo hệ thống thoát và xử lý nước thải; nạo vét và xây kè sông, suối, hồ chứa nước; đắp đê, xây kè chống xói mòn, tụt lở ở các bãi thải, khai trường; tái trồng cây, phục hồi và cải tạo đất ở các khu vực mỏ và bãi thải; đổi mới công nghệ, thiết bị, vật liệu, năng lượng theo hướng sản xuất sạch hơn; thiết lập hệ thống quan trắc và phát triển công nghệ môi trường; tính toán nhu cầu vốn và lộ trình thực hiện. Đây là căn cứ để xác lập mức và huy động nguồn vốn cho quỹ môi trường than.
Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược sản xuất sạch hơn (SXSH)
Chúng ta biết rằng, quá trình khai thác than ngày càng xuống sâu, đi xa với điều kiện địa chất, điều kiện thủy văn, điều kiện khí mỏ…, ngày càng phức tạp khó khăn hơn. Điều đó không những kéo theo chi phí khai thác gia tăng mà còn gây ô nhiễm và các tác động xấu tới môi trường. Vì vậy, nếu không có cách tiếp cận mới đổi với vấn đề BVMT trong quá trình khai thác than thì không thể giải quyết được bài toán phát triển ngành than một cách bền vững. Cách tiếp cận mới đó chính là đưa và thực hiện chiến lược SXSH vào ngành than.
Chiến lược SXSH đối với ngành than cần tập trung vào việc tăng cường công tác quản lý nhằm giảm tiêu hao nguyên - nhiên - vật liệu và tổn thất than trong quá trình sản xuất, tàng trữ than và giảm thiểu chất thải vào môi trường. Đặc biệt, phải triển khai áp dụng mô hình quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14000 cho các doanh nghiệp; triển khai nghiên cứu áp dụng các giải pháp thay thế hoặc giảm tiêu hao các loại vật liệu dùng trong quá trình khai thác, sàng tuyển than; tăng cường các giải pháp kiểm soát quá trình sản xuất than tốt hơn từ góc độ hiệu quả kinh tế và BVMT; cải tiến, thay thế và đổi mới thiết bị trong các khâu khai thác, vận tải than, đất; hiện đại hóa và đổi mới công nghệ khai thác, sàng tuyển; nghiên cứu cải tiến hoặc chế biến các sản phẩm mới từ than; nghiên cứu áp dụng các giải pháp sử dụng năng lượng có hiệu quả hơn; nghiên cứu các giải pháp thu hồi, tái chế và tái sử dụng tại chỗ các loại phế liệu, phế thải trong quá trình sản xuất than; tổ chức tuyên truyền, tập huấn về SXSH cho cán bộ, công nhân trong toàn ngành than.
Cơ chế chính sách tạo vốn cho các hoạt động BVMT trong khai thác than
Để đảm bảo thực thi tốt mọi hoạt động BVMT trong khai thác than đã đề ra trong quy hoạch BVMT, vấn đề then chốt là phải có đủ kinh phí theo mức đã dự tính trong quy hoạch. Trên cơ sở kinh nghiệm hoạt động của Quỹ môi trường than thời gian qua và theo quy định của Luật BVMT, ngành than cần tiếp tục duy trì, phát triển Quỹ Môi trường than để tài trợ cho các hoạt động BVMT. Trong khi chưa lập được Quy hoạch BVMT làm cơ sở để xây dựng dự toán kinh phí cho các hoạt động môi trường, căn cứ vào kinh nghiệm của các nước đi trước, qua thực tiễn của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam về việc trích kinh phí môi trường bằng 1% giá thành than và một số tính toán trong các dự án môi trường có liên quan cho thấy, nhu cầu kinh phí BVMT trong khai thác than thời gian tới phải đạt ít nhất 2% doanh thu hàng năm thì mới đảm bảo được mục tiêu môi trường xanh - sạch - đẹp.
Để có đủ kinh phí cho hoạt động BVMT trong khai thác than, thay vì trích 1% giá thành như hiện nay ngành than nên chuyển sang tạm thời trích 2% doanh thu than. Mức trích chính thức sẽ được xác định theo dự toán kinh phí đã lập trong quy hoạch BVMT than. Để có thể tạo vốn từ nội bộ ngành than và đó là nguồn vốn chính, đề nghị Nhà nước cho phép ngành than thực hiện chính sách định giá than trên nguyên tắc giá bán than trong nước phải tiếp cận giá FOB xuất khẩu than khi cung còn vượt cầu hoặc giá CIF nhập khẩu than khi cầu vượt cung trên thị trường nội địa. Thực hiện thu phí từ việc thụ hưởng một số nguồn lợi từ hoạt động khai thác than. Nguồn lợi do việc khôi phục những vùng đất đã bị phá hủy bề mặt trong quá trình khai thác than. Nguồn lợi do việc đổ thải đất đá lấn biển, vùng đầm lầy… theo quy hoạch để lấy diện tích đất xây dựng khu dân cư, khu công nghiệp và các nhu cầu khác của xã hội. Trong tương lai không xa, có thể có những khu vực, công trình sau khi kết thúc khai thác, đổ thải sẽ được cải tạo thành các hồ chứa nước nhân tạo, các khu/công trình bảo tồn, bảo tàng, các khu vui chơi, giải trí, công viên, các vườn thực vật… Bên cạnh đó, ngành than cần xây dựng và thí điểm thực hiện các phương án thu phí đối với các đối tượng thụ hưởng một vài nguồn lợi đó theo nguyên tắc "trả tiền tiêu dùng" để bù đắp các chi phí xây dựng, cải tạo và đóng góp vào Quỹ môi trường than. Đồng thời, tiếp tục và mở rộng việc thực hiện phương thức ứng vốn trước trồng rừng lấy gỗ trụ mỏ với các lâm trường địa phương như lâu nay đã làm.
Về phía Nhà nước, cần hỗ trợ phần chi phí BVMT của tổng sản lượng khai thác trước năm 1995. Các hình thức hỗ trợ có thể là cấp từ ngân sách, tài trợ từ Quỹ môi trường quốc gia, lồng ghép việc trồng cây ở một số khu vực khai thác và bãi thải sau khi kết thúc hoạt động vào các chương trình quốc gia có liên quan như Chương trình 327 "Phủ xanh đất trống, đồi trọc", Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng… Tạo điều kiện thuận lợi cho ngành than tiếp cận các nguồn vốn từ bên ngoài, bao gồm nguồn vốn của các tổ chức quốc tế, của chính phủ các nước… Bên cạnh đó, có cơ chế hỗ trợ việc di chuyển, cải tạo hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng một số công trình than vì lý do môi trường theo nguyên tắc chung là Nhà nước, ngành than, các ngành liên quan và địa phương cùng có trách nhiệm chia sẻ các lợi ích và chi phí phát sinh do thực hiện việc di chuyển, cải tạo hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng các công trình nêu trên, đồng thời, trợ vốn đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị và thực hiện các giải pháp SXSH.