Một số cây thuốc trong rừng ngập mặn
Kiểu rừng này ở Việt Nam có khoảng 156.608 ha (bằng 2,2% tổng diện tích rừng trong cả nước), nằm dọc theo vùng đất lầy ven biển, cửa sông, từ Trà Cổ ở Đông Bắc, vòng xuống phía Nam qua mũi Cà Mau đến Hà Tiên, giáp với bờ biển của Campuchia. So với các kiểu rừng trên đồi núi, tính đa dạng về loài thực vật của rừng ngập mặn kém phong phú hơn nhiều.
Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã thống kê được 51 loài cây, trong đó có 14 loài cho tanin, 14 loài làm thức ăn gia súc, 30 loài cho gỗ, củi, than, và đặc biệt có nhiều loài cây làm thuốc. Trước hết, nói về những cây làm thuốc trong họ Đước (Rhizophoraceae). Họ này ở nước ta có 4 trong 5 chi là thành phần của rừng ngập mặn, với 10 loài, trong đó có những cây mà ngoài các giá trị như lấy gỗ, đốt than… chúng còn là nguồn cung cấp tanin và được dùng làm thuốc như Đước, Trang, Dà, Vẹt.
![]() |
Cây Trang mang quả với rễ mầm dài. |
Cây Đước đôi, hay Đước bộp (Rhizophora apiculata Bl.), là loài cây gỗ mọc ven biển vùng nhiệt đới Bắc bán cầu. Rừng Đước Cà Mau có cây cao đến 30m, đường kính gốc thân tới 40 – 60cm (cây Đước ở miền Bắc thường nhỏ hơn), có nhiều rễ chống mọc xoè ra quanh gốc thân như cái nơm to để chống đỡ cho cây khỏi đổ. Lá dày, phiến hình bầu dục, đầu nhọn, gốc tù, mặt dưới lá có chấm đen. Lá kèm dài 4 – 9cm. Cụm hoa là xinh hai hoa ở nách các lá đã rụng. Hoa màu vàng nhạt hay trắng, dài 1,5 – 2cm. Quả hình quả lê, dài 2 – 2,5cm, màu nâu, rễ mầm hình trụ thõng xuống, màu xanh lục, dài 20 – 38cm, phía dưới hơi phình to. Cây ra hoa quanh năm; quả chín tháng 6 – 11. Cây có khả năng nẩy mầm từ quả ở ngay trên cành (cây thai sinh) và cũng tái sinh bằng chồi rất khoẻ. Các loài Đước ở Việt Nam thường gặp trong các rừng Sú, Vẹt, trên đất phù sa nhiều bùn, nơi đất ngập thuỷ triều hằng ngày, phổ biến ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Vỏ cây Đước chứa nhiều vitamin, có tác dụng làm săn, cầm máu, chữa viêm họng và trị tiêu chảy (Trung Quốc, Nhật Bản), chữa lỵ, đái ra máu (Myanmar). Ở Ấn Độ, nó được dùng trong điều trị bệnh tiểu đường. Ở Campuchia, người dân thường dùng rễ Đước chữa các bệnh thấp khớp. Người ta đã thử cho bò sữa ăn lá Đước, thấy lượng sữa và hàm lượng chất dinh dưỡng trong sữa tăng lên. Ngoài ra, vỏ Đước còn dùng để nhuộm lưới và thuộc da. Gỗ Đước cứng nặng, khi tươi dễ gia công, khó cưa khi khô, được dùng trong xây dựng, làm khung nhà, trụ cầu, trụ mỏ và đóng đồ mộc.
![]() |
Cây Dà mang quả với rễ mầm dài. |
Theo số liệu nghiên cứu năm 1984, rừng Đước Cà Mau mỗi năm cung cấp cho hệ sinh thái rừng ngập mặn ở đây hàng chục tấn lá khô/ ha. Lớp lá này tạo thành mùn làm thức ăn cho tôm cá và các động vật thuỷ sinh. Vì vậy mà người dân ở Minh Hải có câu “cây Đước rước con tôm, con tôm ôm cây Đước”.
Ngoài Đước đôi, còn có cây Đước nhọn, hay Đước xanh (Rhizophora mucronata Poir), và đước Đước chằng (Rhizophora stylosa Griff). Vỏ các cây này đều chứa nhiều tanin và cũng được sử dụng như loài trên.
Cây trang, còn gọi là Vẹt đìa, Vẹt khang. Chi trang (Kandelia) ở Việt Nam có 2 loìa: Cây Trang ở miền Bắc thuộc loài K. obovata Seue, Liu & Young và cây Trang ở miền Nam thuộc loài K. candel(L.) Druce. Đây là cây gỗ nhỏ, cao 5 – 7m, gặp ở nơi đất ngập thủy triều hằng ngày, không có rễ thở. Lá mọc đối, có phiến thon, dài 5 – 12cm, rộng 2,5 – 5cm, mép thường uốn xuống, lá kèm cao 2cm. Cụm hoa là xim lưỡng phân, mang nhiều hoa trắng, cánh hoa cao 14mm, chẻ hai và rìa thành sợi dài; nhị nhiều; cuống hoa dài 2,5 – 5mm. Quả dài 1 – 1,5cm, có đài uốn xuống. Rễ mầm hình trụ, dài 15 – 30cm. Mùa hoa, quả: tháng 5 – 10.
Loài này phân bố ở các nước Đông Nam Á, cũng có ở ven biển Trung Quốc, Ấn Độ. Ở Việt Nam, cây Trang mọc ở rừng ngập mặn từ Quảng Ninh đến Long An, Minh Hải, Kiên Giang. Người dân vùng ven biển Thái Bình, Hà Nam trồng làm cây bảo vệ đê ven biển và nuôi ong mật.
Vỏ Trang chứa tanin, dùng để nhuộm lưới. Ở Ấn Độ, vỏ cũng phối hợp với Gừng khô, Hồ tiêu và nước Hoa hồng dùng làm thuốc trị bệnh tiểu đường. Quả Trang ăn được, thường dùng để nuôi lợn.
Cây Dà,hay Dà vôi, Dà đỏ, Dà nét ( Ceriops tagal(Perr) C. B. Rob). Khu phân bố từ Đông Phi tới Nam Á, Australia và Melanesia. Ở Việt Nam, cây này gặp ở các bãi lầy ven biển, thường mọc lẫn với cây Đước và Vẹt (hoặc thành rừng thuần loại). Đây là cây gỗ nhỡ, có khi cao tới 10 – 15m, đường kính thân tới 20cm. Vỏ thân màu xám. Quanh gốc cũng có nhiều rễ chống nhỏ. Lá nguyên hình bầu dục, mọc đối, tập trung ở phần cuối các cành. Lá kèm hình mũi mác. Cụm hoa là một xim ở nách lá hay đầu cành, gồm 5 – 10 hoa. Đài hợp, tồn tại trên quả. Cánh hoa thuôn, mỏng, dính nhau ở gốc, màu trắng, sau chuyển sang màu nâu, đỉnh có 3 phần phụ hình chuỳ. Nhị gấp đôi số cánh, không đều nhau. Bầu nửa dưới 3 ô, mỗi ô chứa 2 noãn. Quả hình trứng, rễ mầm dài hình trụ, hơi có cạnh. Quả tháng 5 – 8.
Vỏ cây Dà chứa nhiều tanin, có tác dụng làm săn, dùng đắp cầm máu vết thương. Ở châu Phi, có nơi dùng nước sắc chồi cây Dà để chữa bệnh sốt rét. Nó cũng được dùng để ăn trầu, nhuộm lưới, buồm và dây câu. Có thể pha với thuốc nhuộm khác để nhuộm màu đỏ hoặc đen. Gỗ Dà trong xây dựng, đóng thuyền và làm than củi cho nhiệt lượng cao. Quả cũng có thể ăn được.
![]() |
Cây Vẹt mang hoa và quả. |
Cây Vẹt dù,còn là Vẹt rễ lồi ( Bruguiera gymnorrhiza(L.) Sagigny). Đây là loại cây của châu Á nhiệt đới, thường mọc ở nơi có bùn dọc bờ biển nước ta, nơi đất ngập thuỷ triều hằng ngày. Cây cũng có thể mọc trên chỗ đất khô mặn ít khi thuỷ triều ngập. Vẹt là cây gỗ, cao 20 – 25cm, đường kính thân tới 40cm, có rễ thở hình trụ, cong như đầu gối. Lá dai, hình dầu bục, dài 8 – 11cm, rộng 3 – 5cm, tù ở gốc, nhọn ở đầu, cuống lá dài 2 – 4cm. Hoa đơn độc ở nách lá, thõng xuống. Quả có các lá đài cong; rễ mầm mập, nhọn đầu, hơi có góc. Mùa hoa, quả: tháng 3 – 6, có khi ra hoa gần như quanh năm.
Vỏ Vẹt chứa nhiều tanin, vị chát; có tác dụng làm săn, dùng để nhuộm vải, lưới và thuộc da. Ở Campuchia vỏ Vẹt dùng làm thuốc trị tiêu chảy. Rễ mầm chứa nhiều tinh bột, có thể chế biến làm thức ăn gia súc. Quả dùng để ăn với trầu.
Một số loài cùng chi như Vẹt đen ( Bruguiera sexangula(Lour.) Poir.), Vẹt trụ ( B. cylindrica(L.) Bl.) cũng có công dụng như Vẹt dù. Rễ non của Vẹt trụ có thể nấu ăn như rau.
Gỗ Vẹt cứng rắn, dùng làm nhà, xẻ ván, làm tà vẹt và làm củi. Than của cây Đước và Vẹt rất được ưa chuộng vì ít khói, nhiệt lượng cao (1 kg than Đước cho 6.675 Kcalo, than Vẹt cho 6.375 Kcalo).
Rừng ngập mặn nói chung, trong đó có những cây thuộc họ Đước, đã tạo nên một hệ sinh thái ven biển hết sức quan trọng, không chỉ về mặt môi trường, bảo vệ đê biển, mà còn là một nguồn lợi kinh tế, góp phần nâng cao mức sống cho người dân địa phương. Đó là nơi cung cấp thức ăn gia súc và cư trú cho nhiều loài hải sản, chim, thú và cũng là nơi cung cấp nhiều sản phẩm như gỗ, củi, than, lá lợp nhà, mật ong và nguyên liệu làm thuốc. Điều đặc biệt, rừng ngập mặn còn có khả năng tích luỹ một lượng lớn cabon, tạo bể chứa cacbon, để làm giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính, ứng phó với những biến đổi khí hậu toàn cầu.