Một quy luật vàng đang bị hiểu giản đơn
Tiếc rằng, trong xã hội ta hiện nay, quy luật đó ít được chú ý mà thay cho nó là sự khẳng định rằng “Nhà giáo quyết định chất lượng giáo dục” (Điều 15 của Luật giáo dục). Trong câu trên, không thấy tý bóng dáng nào của việc phát huy nội lực của người học, cũng không thấy bóng dáng gì của nhà quản lý. Đủ biết “nếp cũ đường mòn” nó ăn sâu đến mức nào. Ngày xưa thì: dạy là truyền thụ một chiều, học là tiếp thu thụ động. Thầy giữ độc quyền về chân lý, nói ra điều gì là trò phải nghe, không có quyền tranh luận. Ngày nay, kiến thức của nhân loại tăng lên theo luật số mũ. Cách đây 10 năm, người ta còn nói “cứ 7 năm kiến thức nhân loại lại tăng gấp đôi", thì nay, phải thay 7 năm bằng 18 tháng. Trong tình hình đó, không có ai là uyên bác vạn năng, ngay chỉ trong một lĩnh vực như toán học thì người uyên bác cuối cùng là Henri Poincaré đã mất năm 1912 (cách đây ngót 100 năm). Cho nên, ngày nay, xét về khối lượng kiến thức người ta nói rằng, nếu anh là thầy trong lĩnh vực này thì anh lại là trò trong lĩnh vực khác. Nhưng có những phần trùm lên mọi kiến thức mà lại ẩn đằng sau kiến thức, đó là tư duy và nhân cách người học. Hiểu rộng ra, là cả tư tưởng, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan, phương pháp luận, tính độc lập của tư duy, tính khách quan, trung thực, tư tưởng tiến công không bao giờ ngơi nghĩ trên con đường đi tìm chân lý... Số lượng các phẩm chất này là hữu hạn, ví dụ tư duy thì chỉ có mấy tư duy cơ bản là tư duy lô gíc, tư duy biện chứng, tư duy hình tượng và những tư duy dẫn xuất từ đó rút ra như tư duy quản lý, tư duy kinh tế, tư duy kỷ thuật. Những gì ẩn náu trong mấy chữ “tư duy”, “nhân cách” dù có phong phú đến mấy cũng là hữu hạn. Tuy không nhiều nhưng chúng lại bao trùm hết tất cả các kiến thức và giúp rất đắc lực cho việc hiểu, vận dụng kiến thức và đẻ ra kiến thức mới. Cho nên, trong việc dạy và học ngày nay, phải coi trọng rèn tư duy và nhân cách hơn là học kiến thức, dù cho kiến thức là cần thiết. Nói đúng hơn thì phải dạy - học kiến thức theo hướng đi sâu vào tư duy và nhân cách thay cho lối dạy - học nhồi nhét, bắt chước, ghi nhớ máy móc kiến thức. Xin lấy một ví dụ: Cô giáo dạy cho trẻ lớp 1 làm các phép cộng và trừ trong phạm vi các số từ 1 đến 20. Vì trẻ mới làm quen với các số nên đụng đến các số lớn như 7, 8, 9 các cháu thường phải trực quan hoá các số bằng những tập hợp que tính. Sau bài dạy cô kiểm tra cả lớp bằng cách viết lên bảng 7+9 và yêu cầu các cháu làm rồi viết kết quả lên bảng con của mình giơ lên cho cô xem. Học sinh lấy túi que tính ra đếm 7 que, xong lại đếm 9 que, xong gộp lại và đếm số que đó rồi viết kết quả lên bảng con rồi đưa lên. Cô nhìn qua một lượt, thấy tất cả các em đều có kết qủa đúng là 16 thì khen “tốt lắm”. Nhưng như vậy mới chỉ dạy kiến thức suông. Ở đây, có vấn đề: rèn trí thông minh (tư duy) như thế nào? Trực giác có thể cho cô thấy rằng nếu thay 9 bằng 10-1 thì không phải dùng que và lúc đó phải làm hai phép tính: 7+10 và 17-1 đều dễ. Nhưng nếu cô dùng trực giác của mình để mách nước cho học trò thì tác dụng giáo dục không có bao nhiêu. Cô phải có trình độ triết học để thấy rằng ở đây có vấn đề: “một nội dung có thể chứa trong nhiều hình thức khác nhau và hình thức tác động trở lại nội dung”, đồng thời, có trình độ sư phạm để không nói “triết học” với trẻ lớp 1, mà vẫn dạy được cho các cháu tư duy biện chứng”. Chẳng hạn, cô gọi một em (A) lên bảng và hỏi:
- Có thể thay 9 bằng 8+1 được không?
- Có ạ
- Vì sao?
- Vì 8+1 cũng bằng 9
Cô lại gọi em khác (B):
- Thế có thể thay 9 bằng 7+2 được không?
- Dạ được vì 7+2 cũng bằng 9
Cô lại hỏi cả lớp:
- Hai bạn A và B vừa cho cô biết, có thể thay 9 bằng 8+1, bằng 7+2. Vậy, em nào có cách gì mới hơn thì cho cô biết.
Một phút im lặng. Cô gợi ý:
- Nếu dùng phép trừ thì có thể thay 9 bằng gì?
- Một em đáp: 10-1 ạ
- Bằng 11 - 2 ạ
Cô khen: Giỏi! Về nhà các em suy nghĩ thêm. Rõ ràng, nhờ có phép cộng và phép trừ ta có thể thay một số bằng 2 số cộng với nhau hay số này trừ đi số kia. Các em có biết làm như vậy được lợi gì không?
Học sinh ngơ ngác. Cô nói:
- Ta hãy trở lại bài toán 7+9 lúc nãy. Bây giờ các em có ý kiến gì mới để làm phép cộng này.
Im lặng một lúc rồi có em trả lời:
- Em nghĩ sẽ thay 9 bằng 10-1
- Tại sao?
- Vì khi đó em phải lấy 7+10 rất dễ, thành 17, không cần que tính, xong lại lấy 17-1 thành 16 cũng không cần que tính
- Em thông minh lắm
Rõ ràng, đây là cách dạy kiến thức mà đi sâu vào tư duy và nhân cách. Tất nhiên, một lần dạy như vậy thì chưa ăn thua, tư duy biện chứng (quan hệ giữa nội dung và hình thức) và tư duy hình tượng (cái đẹp của sự gọn gàng tiết kiệm) mới vào đầu óc các em được rất ít, bé như hạt cát. Phải lặp đi lặp lại nhiều lần mới thành bãi phù sa theo đúng như luật thứ 3 của phép biện chứng:
“Những tích luỹ tiệm tiến về số lượng, khi đến một độ nào đó thì sẽ có đột biến về chất”.
Cho nên, phải áp dụng phương châm “sáu mọi” mới làm cho bãi phù sa sớm hình thành: học mọi lúc, học mọi nơi, học mọi người, học trong mọi hoàn cảnh, học mọi cách, học qua mọi nội dung. Học đây bao gồm cả học có bài bản, có giờ giấc và cả học không bài bản, gặp đâu học đó (như trong câu: Đi một ngày đàng học một sàng khôn). Trẻ em thì vừa chơi vừa học chính là vận dụng phương châm: “sáu mọi”.
Để thực hiện phương châm “sáu mọi” thì phải “tự học” là chính vì thầy làm sao mà giúp thực hiện “sáu mọi”. Người “tự học” vừa là trò vừa là thầy. Là trò khi vừa mới tiếp xúc với vấn đề cần học, là thầy khi đã phát huy nội lực nhiều và đã khá sâu về nội dung vấn đề. Ta sẽ gọi thầy này là thầy trong để phân biệt với thầy dạy trên lớp mà ta sẽ gọi là thầy ngoài. Thầy ngoài được đào tạo bài bản, có hơn học sinh một cái đầu , vì vậy nhiều người cho rằng học với thầy ngoài mới ăn thua, chứ học với thầy trong thì ăn thua gì. Nghĩ như vậy là chưa thấy mặt mạnh của thầy trong. Thầy trong gắn thường xuyên với học trò như hình với bóng đến suốt cả cuộc đời của họ và sự thường xuyên đó rất thích hợp với “sáu mọi”. Còn thầy ngoài chỉ xuất hiện trước cả lớp (chứ không phải trước từng học sinh theo kiểu một trò một thầy) khi đến tiết lên lớp và điều đó cũng chỉ xẩy ra trong thời gian người học còn là học sinh, sinh viên. Thầy trong giỏi lên đến đâu thì học trò giỏi lên đến đó. Thầy trong lại là tự có không tốn tiền của để đào tạo, lại không tốn biên chế, không phải trả lương, có bao nhiêu người học có bấy nhiêu người trong. Đó là một lực lượng rất hùng hậu nhưng phần lớn là ngồi chơi xơi nước. Thanh, thiếu niên bây giờ thiếu tự tin, không vào thầy trong của mình mà chỉ lo đi tìm thầy ngoài dù cho làm như vậy thì rất ít chủ động mà lại tốn kém. Nhưng lỗi không phải ở họ mà ở chính sách quản lý. Trước hết, ở chính sách phân biệt đối xử với các bằng “không chính quy”. Học khung chính quy chủ yếu là tự học nên rất ít tốn kém cho nhà nước, cho xã hội (để xây dựng trường sở, trả lương thầy ngoài và ít tốn kém cho gia đình vì có thể ngồi học ở nhà).
Thế nhưng, người có bằng không chính quy mà chưa có việc làm thì rất khó tìm việc làm, cũng khó mà đi học lên. Ông Nguyễn Kim Trung, nguyên Giám đốc Đại học Mở Hà Nội cho biết trường của ông có hệ từ xa nhưng chẳng học sinh phổ thông nào (hỏng thi vào đại học) vào học đại học từ xa. Họ thà đi học lớp 13 để sang năm thi lại vào đại học chính quy.
Trái lại, những người đã có việc làm, thì tấm bằng không chính quy lại có giá trị để xét lên cấp, lên lương nên những ai đã có việc làm lại thích đi học đại học không chính quy (nhưng phần lớn) với động cơ là để được lên chức, lên lương chứ không phải để nâng cao trình độ. Tâm lý đó cộng với tâm lý muốn tăng thu nhập của nhiều giáo viên dạy không chính quy đã gây nên cái cảnh “mua bằng, bán điểm” khá phổ biến trong đào tạo “không chính quy”. Tương lai của giáo dục không chính quy ở nước ta xem ra còn lâu mới sáng sủa trong lúc giáo dục không chính quy vừa rẻ tiền, vừa có thể đem đến chất lượng nếu biết khuyến khích, động viên các thầy. Đã có những thực nghiệm công phu ở ngay trong nước chứng tỏ điều đó. Nhưng những bài học rút ra từ đó không được kế thừa và phát triển. Ví dụ, từ năm 1977 đến năm 1988, Bộ giáo dục (cũ) đã tổ chức đào tạo từ xa được ngót 2000 giáo viên trung học phổ thông có chất lượng, mặc dù, sinh viên từ xa được tuyển những người đạt điểm sàn trong kỳ thi tuyển sinh vào đại học, trong lúc sinh viên chính quy được tuyển từ những người đạt điểm chuẩn. Trải qua 7 kỳ thi tốt nghiệp chung với sinh viên chính quy, họ tỏ ra không kém gì về chất lượng. Bí quyết thành công là ở chỗ đã chặn đứng được ở sinh viên từ xa có tư tưởng trông chờ vào những châm chước, chiếu cố cho những sinh viên không chính quy. Chặn đứng được là nhờ ở chủ trương để họ thi tốt nghiệp chung với sinh viên chính quy mà không được miễn giảm gì hết.
Nhiều người trong xã hội vẫn còn quan niệm giản đơn rằng “tự học” là học mà không có thầy bên cạnh. Khi nói đến tự học là nói đến sự tăng cường ý chí, nghị lực vượt khó khăn và cải tiến cách học để đạt hiệu quả học cao, dù có thầy bên cạnh hay không. Ngay khi có thầy giảng thì họ sẽ cố gắng tập trung tư tưởng để nghe đã là một biểu hiện của sự cố gắng “tự học”. Có thể nói rằng không “tự học” thì cũng không có “học”, vì lúc đó ai “học”? Phát huy nội lực tự học quyết định chất lượng học tập là vậy. Không chịu học hay lười học thì “trời” cũng chịu, không đưa chất lượng đến được. Bác Hồ cũng đã từng nói: “Về việc học phải lấy tự học làm cốt”. Có ý kiến phản biện lại cho rằng thầy giỏi sẽ biết cách làm cho học sinh chăm học. Không hẳn như vậy, vì học sinh chịu nhiều tác động khác ngoài tác động của thầy, ví dụ có học sinh trở nên chán học vì bố mẹ vừa ly dị nhau hoặc học sinh phải học chay vì phòng thí nghiệm quá nghèo nàn. Dĩ nhiên, thầy giỏi là một ngoại lực rất quan trọng, nó xúc tác mạnh làm cho nội lực làm nên chất lượng. Câu “không thầy đó mày làm nên” nên hiểu là muốn phát triển phải kế thừa, người đi sau phải đứng lên vai người đi trước. Hiểu như vậy thì Einstein cũng là học trò của Newton, hoặc phải hiểu rằng, trong quãng đời học của mình ai cũng phải có thầy bên cạnh trong giai đoạn đầu thì mới học được vì lao động học tập cũng khá phức tạp. Trẻ em phải có người lớn kèm cặp thì mới học được, ít ra cho đến hết bậc trung học cơ sở. Từ bậc học này trở đi, đã có không ít tấm gương “tự học không có thầy bên cạnh” mà thành đạt.
Gọi là quy luật: “nội lực quyết định chất lượng học tập” là quy luật vàng vì nó quý như vàng. Nó đã giúp cho giáo dục nước ta, ngay trong chiến tranh ác liệt vẫn phát triển mạnh mẽ mà chất lượng lại được xã hội chấp nhận. Khi giải phóng thủ đô, ở các trường đại học vừa có sinh viên ở kháng chiến về (họ học phổ thông có 9 năm), vừa có sinh viên trong vùng tạm chiếm ở lại (họ học phổ thông 12 năm). Hai khối sinh viên này đã hoà nhập vào nhau thuận lợi. Tại sao 9 theo kịp 12, mặc dù, kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ, các giáo viên toàn dạy ép, dạy kê, vì có ai đạt chuẩn đâu. Chính là nhờ các thầy trong đã đỡ bớt cho những khuyết điểm của chương trình (9 năm) của đội ngũ giáo viên (dạy ép, dạy kê), của cơ sở vật chất (tranh, tre). Các thầy trong (của học trò và của giáo viên) hồi đó hoạt động rất tích cực nhờ kế thừa được truyền thống tự học của dân tộc, nhờ động cơ học tập trong sáng thực sự là để diệt giặc “dốt”, chưa nhiễm bẩn bởi những động cơ về tiền tài, danh vọng, địa vị, nên dạy và học đều thật, không có tiêu cực để tạo nên học giả, thi giả, bằng giả. Sau khi chiến tranh kết thúc, nhu cầu học và các điều kiện để học đều tăng lên nhưng lại thiếu một tầm nhìn xa, một phương pháp luận biện chứng, một tư duy hệ thống nên thường bị động, nước đến chân mới nhảy, do vậy, không những không phát triển được mà cũng không duy trì được truyền thống tự học. Nếu như hồi chiến tranh, không những không có chuyện dạy thêm, học thêm tràn lan mà ngay cả việc tổ chức dạy hè cho học sinh từ cấp 2 trở lên cũng không có, vì lên đến cấp 2, học sinh đã tự cho là đủ sức để tự ôn luyện trong hè, tìm thầy để học hè là đáng xấu hổ. Còn bây giờ, đến lớp 12 vẫn quanh năm có các lớp dạy thêm, người đi học không ai xấu hổ.
Để sửa chữa được tình hình trên, không thể chỉ dùng vài biện pháp riêng lẻ mà phải dùng cả một hệ thống những biện pháp liên hoàn, hầu như phải làm hẳn một cuộc cải cách giáo dục. Đó là việc lớn, không thể làm trong phạm vi bài báo này. Trước mắt, để cải thiện tình hình, có thể làm ngay hai việc sau đây:
Một là xoá bỏ ngay chính sách phân biệt đối xử với các bằng không chính quy. Những người có bằng không chính quy vẫn được dự thi (hay thử việc) để tìm việc làm, để được chọn đi học lên. Từ nay về sau, dù học chính quy hay không chính quy đều được dự những kỳ thi chung để lấy các tín chỉ, ai hội đủ các tín chỉ thì được cấp bằng tốt nghiệp, không còn phân biệt bằng chính quy, bằng không chính quy.
Hai là cải tiến tuyển sinh đại học không phải bằng chủ trương 2 trong 1 mà bằng cách thử thách khả năng tự học của thí sinh qua việc tổ chức “thử học từ xa” một học kỳ, nếu học được thì coi như trúng tuyển./.








