Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 02/08/2010 07:00 (GMT+7)

Mâu thuẫn giữa văn hóa truyền thống và hiện đại ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ

Về cơ bản, cho đến nay cơ dân ở đồng bằng Bắc bộ sống quần tụ thành làng như nhiều vùng khác, sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, thuần túy làm nông nghiệp. Nhưng do đất đai ở Bắc bộ không nhiều, không đồng đều về độ phì nhiêu, khí hậu lại rất thất thường, trong khi đó dân số lại đông nên việc canh tác cấy cày dựa trên cây trồng chính là cây lúa chưa đủ để đảm bảo cuộc sống. Bởi vậy, cư dân nơi đây tận dụng thời gian nông nhàn của vòng quay mùa vụ để làm thêm thủ công. Chỉ tính riêng ở đồng bằng sông Hồng, trước đây người ta từng thống kê được hàng trăm nghề thủ công như: nghề gốm, nghề dệt, luyện kim, đúc đồng.... Nghề thủ công đem lại nguồn thu nhập đáng kể; đồng thời làm gia tăng thêm bản sắc văn hóa truyền thống vốn có của khu vực nông thôn đồng bằng Bắc bộ.

Về mặt xã hội, có thể nhận thất quan hệ giai cấp ở khu vực này rất mờ nhạt, nhưng tính cộng đồng lại rất cao. Đây là kết quả của một quá trình dài Bắc Bộ nằm dưới sự điều tiết của các vương triều phong kiến. Nó tạo ra một lối sống khá ổn định, dựa trên nền kinh tế tự cấp tự túc là chính với một tâm lí bình quân, an phận. Mối quan hệ giữa con người với con người trong cộng đồng được xác lập theo phả hệ dựa trên những quan hệ về tâm linh, về chuẩn mực xã hội, đạo đức và các di sản hữu thể chung như đình, chùa, nhà thờ họ... Những quan hệ này được đảm bảo tính khép kín bằng những quy định bất thành văn như: "phép vua thua lệ làng" và các hương ước, khoán ước của làng xã. Chính các quy định mang tính nội bộ này với quy định khá chặt chẽ về mọi phương diện của làng, đã khiến cho tính cố kết trở thành một sức mạnh tinh thần mang đậm bản sắc địa phương.

Với tư cách là cái phản ánh, văn hóa chịu sự quy định của đời sống sản xuất vật chất, trong đó trình độ của lực lượng sản xuất đóng vai trò rất lớn. Trong khí đó, nông thôn đồng bằng Bắc bộ với nền kinh tế tiểu nông, người sản xuất vẫn mang nặng tâm lý tự cung, tự cấp đã khiến cho lực lượng sản xuất chẳng những không kéo quan hệ sản xuất phát triển; mà ở một số vùng thậm chí chúng còn đồng hành để trở thành một trong những trở ngại của quá trình phát triển. Xét một cách tổng thể, sự không đồng đều về trình độ sản xuất, tiêu dùng ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ cũng phản ánh độ không đồng đều về văn hóa hiện có. Đây là căn cứ cơ bản để nhận diện mâu thẫu giữa văn hóa truyền thống và hiện đại ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ hiện nay.

Thứ nhất, về văn hóa vật thể, ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ xuất hiện mâu thuẫn giữa mục tiêu bảo tồn giá trị cổ và cải tạo những gì hiện có để phù hợp với giá trị thực dụng của nó. Mâu thuẫn này thể hiện một phần mâu thẫu giữa giá trị thực dụng và giá trị thẩm mỹ. Rõ ràng, những phố cổ, nhà cổ là di sản văn hóa truyền thống đặc trưng của nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ. Nhưng việc giữ lại nhà cổ để duy trì không gian văn hóa thẩm mỹ với những giá trị lịch sử của nó lại mâu thuẫn với nhu cầu được mở rộng không gian sống của người dân địa phương. Dù ý thức được giá trị văn hóa lịch sử nhưng người dân không thể sống trong những ngôi nhà chật chội, cũ nát. Sự phát triển của đô thị hóa chắc chắn sẽ tiếp tục làm co hẹp ruộng đồng, thôn xóm; thay vào đó là những cấu trúc hiện đại. Những cấu trúc này có thể tiếp tục phá vỡ cảnh quan, không gian thuần phác vốn có ở vùng nông thôn, nhưng bù lại nó cho thấy sự phát triển đi lên của nền kinh tế, nó hữu dụng với nhịp độ sống mới và nó còn phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ mới của một bộ phận nhân dân.

Giải quyết mâu thuẫn này như thế nào là một bài toán khó bởi tâm lý người nông dân là "mạnh nhà nào nhà nấy làm, đất nhà nào nhà ấy xây" trong khi chính quyền chưa có những quy định mang tính pháp lý mạnh về việc xây dựng như ở thành thị; trình độ nhận thức của người nông dân về văn hóa, lịch sử và các giá trị dân tộc thường thấp và không đều; đối với những cá nhân, hộ gia đình ủng hộ việc gìn giữ các kiến trúc cổ thì sự hỗ trợ về mặt vật chất cho họ chưa thực sự được quan tâm.

Đối với những kiến trúc tập thể đã được công nhận di tích lịch sử, mẫu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại cũng không hẳn là đã được giải quyết. Những tư tưởng với đền Hùng, Cổ Loa, Hoa Lư, Lam Sơn, phố Hiến, chùa Dâu, chùa Hương, chùa Tây Phương... và mật độ dày đặc đình, đền, miếu, chùa giá trị truyền thống đã vượt lên trên giá trị hiện đại ở đồng bằng Bắc bộ. Song thực tế lại không phải hoàn toàn như vậy. Xung đột giữa truyền thống và hiện đại nảy sinh khi người ta không sử dụng các di tích theo đúng tôn chủ của nó. Sức mạnh của đồng tiền, vòng quay của cơ chế thị trường, lối kinh doanh chụp giật đang xuất hiện ở hầu khắp các điểm tham quan du lịch như một thách thức làm đau đầu các nhà chức trách. Không chỉ vậy, bản thân các di tích đôi khu cũng phải oằn mình trong cuộc chiến trùng tu mà kết quả là sản phẩm cuối cùng đôi khi được khoác lên mình tấm áo hoàn toàn khác, nó mang nhiều tính hiện đại và chỉ còn "dính dáng" đến giá trị cổ về mặt nguyên tắc. Bài học rút ra được từ thực tế này khiến những người quan tâm đến giá trị văn hóa truyền thống phải rất cẩn trọng khi tác động vào di sản, bởi vì, di sản xuống cấp thì không thể không trùng tu nhưng trùng tu như thế nào không phải là vấn đề đơn giản.

Văn hóa trang phục hay cách mặc của người dân Bắc bộ cũng đang thể hiện sự xung đột giữa truyền thống và hiện đại. Đàn ông ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ xưa thường xuất hiện với y phục đi làm là chiếc quần lá tọa, áo cánh màu nâu sồng. Đàn bà gắn liền với chếic váy thâm, chiếc áo nâu, khi đi làm. Những ngày trọng đại, hội làng... thì đàn bà thường sử dụng áo dài mớ ba mớ bảy, đàn ông dùng quần trắng, áo dài the tím xanh, chít khăn đen. Ngày nay y phục của người dân ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ đã có sự thay đổi khá nhiều. Rõ nét nhất là trang phục đi làm được thay bằng áo tây, quần tây. Ngày hội lớn vẫn thấy áo mớ ba mớ bảy, áo dài the nhưng với tư cách là trang phục biểu diễn chứ không phải trang phục đi hội của người dân. Trong đám cưới ở nông thôn, váy đầm tây được các cô dâu lựa chọn nhiều hơn trang phục truyền thống... Xét theo một chiều cạnh nhất định, không thể phủ nhậnt ính hữu dụng hiện đại của trang phục phương Tây, cũng không thể cứng nhắc bắt người nông dân đóng khung thị hiếu thẩm mỹ của họ trong trang phục truyền thống, nhất là đối với thế hệ trẻ. Để trang phục truyền thống có thể chiếm ưu thế so với thứ trang phục "thập cẩm" được du nhập vào, núp bóng tính hiện đại và thực sự trường tồn theo đúng nghĩa của tên gọi, thiết nghĩ cần có một sự đầu tư dài hạn, một chiến lược hợp lý trên một quy mô rộng.

Thứ hai, về văn hóa phi vật thể, xung đột giữa tính truyền thống và hiện đại ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ cũng xuất hiện, thậm chí cường độ, tính chất còn mạnh và gay gắt hơn mâu thuẫn trong văn hóa vật thể. Chẳng hạn, tuồng chèo, hát quan họ, hát xoan, hát trống quân, hát chầu văn... là những nét văn hóa nghệ thuật tiêu biểu ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ nhưng vị trí của chúng đang bị lung lay trước làn sóng hiện đại hóa. Nhưng người tâm huyết với vốn cổ mong gìn giữ lại những giá trị nguyên bản, song họ lại đứng trước thực tế nếu nghệ thuật không truyền tải thông điệp của cuộc sống, không bắp nhịp với giá trị hiện đại thì cũng sẽ bị khước từ. Tuy nhiên, nếu hiện đại các giá trị cổ có thể lại biến nó thành một thứ văn hóa lai căng và nghệ thuật sẽ chẳng còn là nó khi người nghệ sỹ đánh mất cảm thụ nghệ thuật, chịu sự chi phối của các giá trị vật chất tầm thường. Một vấn đề ảnh hưởng đến khu vực đồng bằng Bắc bộ với kho tàng văn học dân gian rất có giá trị từ thần thoại đến truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, truyện cười, truyện trạng... dường như lại dành sức hút cho các nhà nghiên cứu nhiều hơn là chủ nhân của chính nó. Những truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn không hấp dẫn thế hệ trẻ bằng truyện tranh nước ngoài, game, truyện chưởng. Câu đố, câu đối, nói lái, chơi chữ đang dần trở thành xa lạ, thay vào đó là ngôn ngữ giản tiện của xã hội hiện đại...

Mâu thẫu chính là động lực của sự phát triển, nó tạo ra sự tương đồng giữa cái cũ và mới, loại bỏ những gì là không phù hợp. Chẳng hạn, lối sống hiện đại xâm nhập sâu vào khu vực nông thôn Bắc bộ đã làm cho các nghi lễ truyền thống như tang ma, cưới hỏi biến đổi. Các nghi thức đang dần được hiện đại hóa, các hủ tục bị xóa. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng mức độ hòa hợp của truyền thống và hiện đại hay giới hạn xung đột của chúng lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó quan trọng nhất phải kể đến là sự phân tầng mức sống, mức thu nhập ở cả diện rộng và hẹp. Ở diện rộng, qua khảo sát ở các vùng nông thôn Bắc bộ, các nhà nghiên cứu nhận thấy sự chấp nhận nhanh những yếu tố mới thường tập trung ở các làng xã có kinh tế khá hơn, mà chủ yếu là các làng xã phát triển kinh tế theo hướng mở chứ không thuần nông như ở Ninh Hiệp, Vạn Phúc (Hà Nội), Đồng Kỵ (Bắc Ninh).... Ở diện hẹp, bản thân những cá nhân có học vấn, có mối giao lưu quan hệ xã hội rộng sẽ có cơ hội tìm được nguồn thu nhập cao hơn và họ cũng sẽ nhanh chóng tiếp nhận lối sống với những giá trị chuẩn mực mới hơn. Tất nhiên, cần phải khoanh vùng để loại bỏ những phản giá trị núp bóng giá trị hiện đại để xâm nhập vào đời sống đương đại.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, đời sống văn hóa chịu sự quy định của đời sống sản xuất vật chất và về nguyên tắc nó sẽ tương ứng với trình độ phát triển kinh tế của cộng đồng đó. Ngược lại, sự phát triển kinh tế lại chịu sự chi phôi của bối cảnh văn hóa bao chứa nó. Mối quan hệ biện chứng này chính là mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó ý thức xã hội tuy là cái phản ánh tồn tại xã hội. Cho nên, tuy làn sóng toàn cầu hóa với sức lan tỏa của nó đã khiến cho việc phổ biến các giá trị hiện đại trở thành tất yếu khách quan nhưng ở những khu vực nông thôn như nông thôn Bắc bộ, mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại vẫn tiếp tục diễn ra nhiều hơn so với khu vực thành thị. Nguyên nhân của vấn đề này một phần nằm ở mẫu thuẫn giữa tính cởi mở, phong phú, biến đổi nhanh của văn hóa mới và tính khu biệt, ổn định của các giá trị văn hóa truyền thống. Thêm vào đó, tâm lý tiểu nông, trình độ học vấn hạn chế khiến người nông dân nông thôn đồng bằng Bắc bộ e dè trước cái mới, ngại ngần trước việc cải tạo cái cũ và phân vân giữa việc xác định đâu là giá trị, đâu là phản giá trị. Không những vậy khoảng cách giữa các thế hệ dường như càng làmgia tăng thêm mâu thuẫn khi lớp người có tuổi có xu hướng bảo tồn cái truyền thống, còn thế hệ trẻ lại muốn "vượt ngưỡng" thật nhanh để tiếp thu cái hiện đại. Dưới khía cạnh chủ thể tiếp nhận văn hóa, GS Trần Quốc Vượng cho rằng việc kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại phải là: già trẻ học tập lẫn nhau. Hiểu theo một phạm vi nhất định là phải tạo ra sợi dây liên kết giữa các thế hệ về mặt hưởng thụ văn hóa. Đây có thể xem như một gợi ý để giải quyết phần nào xung đột giữa truyền thống và hiện đại ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ.

Với tư duy biện chứng, cần phải khẳng định rằng xung đột giữa truyền thống và hiện đại ở nông thôn đồng bằng bắc bộ là hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan. Mâu thuẫn này cũng là mâu thuẫn tất yếu nảy sinh ở mọi khu vực trong tiến trình phát triển. Nhận thức được một cách sâu sắc vấn đề này, ở tầm vĩ mô, Đảng ta qua các kỳ đại hội đều khẳng định: "Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội". Làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại, nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân.

Xem Thêm

Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

LHH Bình Định và Gia Lai trao đổi kinh nghiệm, hướng tới mô hình tổ chức phù hợp sau sáp nhập
Ngày 28/5, tại TP Pleiku đã diễn ra buổi làm việc và trao đổi kinh nghiệm giữa Liên hiệp các Hội KH&KT (LHH) tỉnh Bình Định và LHH tỉnh Gia Lai. Buổi làm việc do ông Lê Văn Tâm – Phó Chủ tịch Thường trực LHH Bình Định và ông Nguyễn Danh – Chủ tịch LHH Gia Lai đồng chủ trì.
Nâng cao nhận thức và năng lực ứng dụng AI trong truyền thông, báo chí
Ngày 29-5, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Chương trình tập huấn với chủ đề “Trí tuệ nhân tạo (AI) – Ứng dụng trong báo chí hiện đại”. Học viên tham dự tập huấn là các phóng viên, biên tập viên thuộc các cơ quan báo chí của các Tổ chức KH&CN, Hội ngành toàn quốc trong hệ thống.
Quảng Ngãi: Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Thực hiện Chương trình phối hợp công tác năm 2025, Liên hiệp hội tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Quảng Bình: Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính - công vụ - xã hội
Ngày 28/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Quảng Bình tổ chức Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính- công vụ - xã hội cho 100 học viên là cán bộ, công chức, viên chức một số sở ngành, cơ quan Liên hiệp Hội và hội viên của các Hội thành viên.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng chúc mừng Liên hiệp hội Hà Tĩnh nhân Kỷ niệm 30 năm thành lập
Sáng 26/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Tĩnh (Liên hiệp hội) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập (27/5/1995-27/5/2025). Dự lễ kỷ niệm có Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Trần Nhật Tân, đại diện các tỉnh bạn, các sở ngành tại địa phương và lãnh đạo, cán bộ nhân viên của Liên hiệp hội qua các thời kỳ.
Phát động hưởng ứng Ngày phòng chống tác hại của thuốc lá tại Phú Yên
Sáng qua 28/5, tại Trường đại học Phú Yên, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tỉnh phối hợp với Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam tổ chức lễ phát động hưởng ứng các hoạt động phòng chống tác hại của thuốc lá vì sức khỏe người tiêu dùng với thông điệp: “Phòng chống tác hại của thuốc lá bảo vệ thế hệ tương lai”, “Vì sức khỏe người tiêu dùng hãy nói không với thuốc lá”.
Anh nông dân lớp 5 và hành trình tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật
Trong bối cảnh nông nghiệp ngày càng đòi hỏi sự đổi mới, thích ứng và sáng tạo để nâng cao năng suất và giảm chi phí lao động, một người nông dân tại Châu Phú, An Giang - dù chỉ học hết lớp 5 - đã chứng minh rằng: Tri thức không chỉ đến từ sách vở mà còn từ thực tiễn cần mẫn và khối óc sáng tạo không ngừng.
Trao Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam năm 2024
Tối 28/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ (KHCN) Việt Nam năm 2024.
Quảng Ngãi: Tổ chức Hội nghị tuyên truyền cho trí thức
Chiều 9/5, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm tỉnh Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức và Hội viên của Câu lạc bộ Lê Trung Đình tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề “Tình hình Biển Đông gần đây và chính sách của Việt Nam”.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Phát động Chiến dịch phục hồi rừng “Rừng xanh lên 2025” tại Sơn La
Hưởng ứng Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 22/5 và Ngày Môi trường Thế giới 05/06, ngày 25/5, Liên Hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã phối hợp cùng Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Hạt Kiểm lâm Vân Hồ, Trung tâm Nghiên cứu Sáng kiến Phát triển cộng đồng (RIC) và chính quyền địa phương phát động trồng hơn 18.000 cây bản địa tại hai xã Song Khủa và Suối Bàng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.
VinFuture 2025 nhận 1.705 đề cử toàn cầu – tăng 12 lần số đối tác đề cử sau 5 mùa giải
Giải thưởng Khoa học Công nghệ toàn cầu VinFuture đã chính thức khép lại vòng đề cử cho mùa giải thứ 5 với 1.705 hồ sơ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, số lượng đối tác đề cử chính thức của Giải thưởng đã tăng trưởng vượt bậc, đạt 14.772 đối tác.