Mạc Đĩnh Phúc - Thủ lĩnh “Thiên binh”
UBND tỉnh Hải Dương cùng Sở Văn hoá thông tin, Nhà bảo tàng và dòng họ Mạc đã tổ chức lễ kỷ niệm ngay tại chùa Minh Khánh (tức chùa Hương, xã Thanh Bình, huyện Bình Hà), nơi xưa kia Mạc Đĩnh Phúc làm lễ tế cờ trước khi xuất phát.
Ông gây dựng cơ sở chống Pháp trên địa bàn Hải Dương từ trước khi Kỳ Đồng (tức Nguyễn Văn Cẩm) về nước (1896). Cuối cùng 1896, ông phối hợp với Kỳ Đồng trong một kế hoạch chung. Kỳ Đồng chỉ đạo chung đóng ở chợ Kỳ (Yên Thế). Theo Mạc Đĩnh Phúc, những đội quân Cần Vương hướng về Hàm Nghi với Sơn Phòng, với chiến luỹ Hương Khê, Ba Đình, Bãi Sậy… đã hết hiệu nghiệm, phải thay bằng đội quân khác với những thủ lĩnh khác do “trời sai xuống” nghĩa là những đội quân chính hiệu “Thiên binh thần tướng” phối hợp với những đạo “âm binh” đội đất mà lên. Đây cũng là đặc điểm của phong trào chống Pháp những năm cuối thế kỷ XIX ở Bắc – Trung – Nam , nói như giáo sư Trần Văn Giàu: “có những tổ chức vũ trang cố tìm lại trong kho vũ khí tinh thần xưa xem còn gì để có thể dùng được. Vương Quốc Chính dựa vào các thần anh hùng, các thần linh núi sông để lập “5 binh đoàn” đánh vào Hà Nội; Mạc Đĩnh Phúc ở đồng bằng sông Hồng; Nguyễn Hữu Trí ở đồng bằng sông Cửu Long dựa vào tín ngưỡng đạo giáo Thần Thiên, dùng sức mạnh của bùa chú để động viên lực lượng để đánh tỉnh Thái Bình, thành phố Sài Gòn; Võ Trứ ở Phú Yên tập họp các sư sãi tín đồ Phật giáo và đồng bào thiểu số tiến đánh sông Cầu…” ( Mấy đặc điểm lịch sử Việt Nam thế kỷ XX).
Mạc Đĩnh Phúc tự trang bị những vốn liếng cần thiết để bói toán, địa lý, tử vi… nghĩa là đủ món “kỳ phương dị thuật” để đi vào quần chúng nông dân đang khắc khoải sau những luỹ tre xanh. Ông chữa bệnh, mách thuốc, đặt mồ mả… ông tự nhận là dòng dõi họ Mạc ở Bình Hà (nay là xã Thanh Bình, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương), dòng họ từng một thời in đậm dấu vết một vương triều trên vùng đất ven biển. Mạc Đĩnh Phúc phao tin đã đào được ấn vàng nhà Mạc khắc bốn chữ “sắc lệnh chi bảo”. Nhưng nếu chỉ có vậy thì cũng chưa đủ để dân chúng quan tâm. Vấn đề mấu chốt là vai trò của vị “quốc sư” Kỳ Đồng tiếng tăm từng lan khắp dân gian. Mạc Đĩnh Phúc chọn người đóng giả Kỳ Đồng đến dự buổi ra quân đêm 13 – 12 – 1897 tại chùa Minh Khánh. Kỳ Đồng giả ngồi trên kiệu, để tóc xoã, mặc áo thụng xanh quần đỏ, đi hia trắng, tay cầm quạt lông ngỗng, thong thả xuống kiệu, bước lên tam quan, tuyên đọc bài hịch qua một chiếc loa đồng. Bài hịch Bình Tây diệt Nguyễncó đoạn sau:
“Vua tôi nhà Nguyễn tuy tạm thời làm chủ nước Nam nhưng đã quỳ gối đầu hàng lũ quỷ… Nay ta Quốc sư Kỳ Đông vâng lệnh thiên đình, khâm sai chư tướng và đoàn âm binh, nghe ta triệu tập về đây phi phong hoả tốc phải mau mau trổ tài biến hình biến tướng, vâng lệnh này diệt Nguyễn bình Tây”.
Nghĩa quân do Mạc Đĩnh Phúc tập trung đa số là nông dân nghèo khổ. Một phần số là binh lính người Việt trong quân đội thực dân Pháp được Mạc Đĩnh Phúc giác ngộ đã giúp nghĩa quân điều tra tình hình địch, lấy trộm súng đạn… Ban ngày nghĩa quân vẫn sản xuất trên đồng ruộng như những nông dân thực thụ. Đêm đến, khi dân làng đã ngủ yên, nghĩa quân bí mật đến bãi tập đã quy định, mang theo vũ khí (gậy, giáo, mã tấu…) và lương thực (cơm nắm, muối vừng). Mạc Đĩnh Phúc trực tiếp huấn luyện ở khu vườn cấm thôn Bình Hà rộng 4 – 5 mẫu. Khi tập, thắp đèn dầu lạc và đốt hương quanh bãi, gợi cảm giác huyền bí. Một kỷ luật đặt ra cho nghĩa quân là phải hoá trang khi đến bãi tập, bôi mặt đen bằng nhọ nồi, người bôi vôi trắng hoặc phẩm đỏ… nội dung tập luyện là những bài võ truyền thống như đánh gậy, phóng lao, những bài quyền kiếm… Trước khi trời sáng, lặng lẽ rút quân, xoá sạch mọi dấu vết trên bãi tập. Các địa điểm tập được bố trí cách nhau, một cơ sở rèn vũ khí bí mật ở Kiến An với những xưởng nhỏ phân tán ở 36 địa điểm trong tỉnh. Hôm khởi sự (13 - 12 - 1897), nghĩa quân thống nhất trang phục: chít khăn nâu qua cằm, thắt lưng dây chuối, quần bò xà cạp, trên mặt vẽ 3 vòng tròn, đen, trắng, đỏ ở hai mắt và quanh miệng, ngực đeo một tấm thẻ tre ghi hai chữ “Thiên Binh” cùng họ tên, quên quán. Cấp chỉ huy chít khăn đầu rìu, mặc áo dài nâu, thắt lưng vải trắng, lá cờ màu nâu mang dòng chữ “Bình Tây, diệt Nguyễn” được treo lên ngọn cây đa cổ thụ ở xứ Đồng thuỷ quan, nghĩa quân đội ngũ chỉnh tề, nghe tuyên đọc hịch của Quốc sư Kỳ Đồng. Sau đó thổi tù và, đánh thanh la, hò reo vang dội, tiến làm hai cánh về thị xã Hải Dương, do lãnh binh Lê Văn Trác theo đường 19 ra đường 5 ở vị trí ở cầu Phú Lương và cánh thứ hai do lãnh binh Phan Đình Quỳnh chỉ huy từ đò Hương qua sông Cốm sông Vàng đi thuyền theo sông Hàn tiến vào… tạo thành thế gọng kìm vây đánh đồn lính khố xanh và toà sứ. Công sứ Robineua đã được mật báo “một trận đánh sắp xảy ra”, y ra lệnh điều tra thì tiếng súng đã nổ bên đồn, lửa cháy đã bốc cao ở phía chợ. Loa gọi:
“Bớ Tây đồn! Bớ lính khố xanh! Là phàm trần các người dù có súng đạn cũng không thể đương nổi binh hùng tướng dũng của nhà trời. Kẻ nào quy thuận thì sống, chống thì chết”.
11 giờ đêm, nghĩa quân lọt vào được trong đồn, giám binh Archard và phó giám binh Duverge hoảng hốt xin hàng. Cuộc tấn công thị xã Hải Dương mở màn cho hàng loạt cuộc nổi dậy ở các nơi.
Đồn Ninh Giang: do Đốc Liễu và đội Ba chỉ huy theo đường 17A, liên tiếp phá ba hàng rào gỗ tiến vào… không hạ được đồn phải rút về sông Luộc.
3 ngày sau (16 - 12) lại tấn công đồn Quí Cao (Hải Phòng), các toán khác bao vây uy hiếp các đồn Tứ Kỳ, Gia Lộc, Nam Sách, Cẩm Giàng.
Tại Hải Phòng: Lãnh Mộc, tổng Tốn tế cờ ở Đình Kỳ Sơn (thuộc Kiến An) rồi làm hai cánh tiến về Hải Phòng ngày 15 - 12.
Tại Thái Bình: đêm 15 - 12 sư Thụ theo đê sông Trà Lý tiến về thị xã. Một bộ phận khác về làng Luật Trung đốt phá nhà tên Trần Văn Khiêm (tri phủ Phù Dực, tay sai Pháp đàn áp văn thân trước đây), phá kho thóc của hắn chia cho dân. Lãnh Chuẩn đánh vào dinh công sứ, một cánh khác đánh vào dinh tuần phủ Vương Hứa Bình.
Do tương quan lực lượng không cân sức nên các cuộc tiến công nhanh chóng bị dập tắt.
Mạc Đĩnh Phúc bị bắt giải về thị xã Hải Dương và bị xử tử ngày 29 – 12. Tuy chưa thành công nhưng cuộc nổi dậy đã gây nỗi kinh hoàng cho hệ thống chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam . Chúng phải thú nhận: “Chúng ta không biết rằng Việt nam chưa bao giờ chịu khuất phục trước kẻ xâm lược… tình trạng của chúng ta phải đương đầu với một dân tộc thống nhất mà ý thức dân tộc của họ không hề bị suy yếu” (F. Bernard).
Mạc Đĩnh Phúc sống mãi trong chúng ta và là niềm tự hào của Mạc tộc.