Lý luận văn học trước yêu cầu hợp tác nghiên cứu
Nhân dịp này, Tòa soạn cho đăng bài viết có tính chất tham khảo của PGS TS Nguyễn Văn Dân như là sự mở đầu cho ý kiến của các nhà chuyên môn về xung quanh các nội dung mà Hội thảo đặt ra, rất mong sau đây, bạn viết và bạn đọc - với thiện chí lành mạnh về sự phát triển của văn học nước nhà, sẽ nhiệt tình tham gia thảo luận.
Ngày nay, chúng ta hay bắt gặp một luồng ý kiến cho rằng “hệ thống lý luận văn học cũ không còn đáp ứng, trong khi đó hệ thống lý luận mới lại chưa hoàn chỉnh”. Vậy thực tế tình hình là như thế nào? Trước hết chúng ta hãy xem xét diện mạo của lý luận văn học nước ta hiện nay.
1. Diện mạo của lý luận văn học hiện nay
Thực tế, kể từ ngày đổi mới đến nay, trên văn đàn nước ta đã xuất hiện rất nhiều lý thuyết và phương pháp nghiên cứu và phê bình văn học. Tất nhiên đây không phải là những lý thuyết và phương pháp hoàn toàn mới, mà hầu hết chỉ là những lý thuyết và phương pháp du nhập của phương Tây. Một loạt các cuốn sách được dịch khá công phu. Các công trình nghiên cứu của Propp, Heidegger, Bakhtin, Meletinsky, Lotman, Freud, Jung, Jauss, Derrida, v.v... đã được dịch sang tiếng Việt. Nhiều lý thuyết và phương pháp của phương Tây đã được áp dụng cho việc nghiên cứu văn học Việt Nam, như phương pháp ký hiệu học, phương pháp tâm phân học, phương pháp thi pháp học, phương pháp tiếp nhận mỹ học, v.v... Có thể nói, nhiều lý thuyết và phương pháp trước đây được coi là vùng cấm kỵ thì nay đã được phổ biến rộng rãi, hầu như không còn có sự hạn chế nào trong việc tiếp cận kho tàng lý luận văn học của thế giới. Quyền tự do trong nghiên cứu đã được tôn trọng và mở rộng. Một số người còn áp dụng khá thành công các phương pháp nghiên cứu của phương Tây vào thực tiễn nghiên cứu văn học của nước nhà mà cách đây hơn hai mươi năm, việc đó khó có thể được thực hiện. Thậm chí, có những quan niệm trước đây bị phê phán như tâm phân học, lý thuyết về văn học so sánh, lý luận tiếp nhận,... nay đã được tiếp thu một cách cởi mở và áp dụng vào thực tế nghiên cứu văn học.
Tuy vậy, hệ thống lý luận văn học đã có của chúng ta tuyệt nhiên không phải là không còn giá trị. Xét ở cấp tổng thể, những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử áp dụng cho mỹ học và nghiên cứu văn học vẫn mãi mãi mang ý nghĩa thời sự. Nhưng, những quan niệm cụ thể của mỹ học mác-xít cũng tuyệt nhiên không thể là những giáo điều bất biến. Thực tiễn lịch sử và xã hội sẽ quy định mọi quan niệm lý thuyết. Sự thay đổi của các điều kiện lịch sử - xã hội sẽ quyết định sự thay đổi của các quan niệm nghệ thuật. Đó là quy luật khách quan đương nhiên. Về cơ bản, những quan niệm về bản chất và đặc điểm của văn học vẫn có những hạt nhân hợp lý của chúng cần được giữ lại. Tuy nhiên, các mối quan hệ giữa chúng với nhau thì không còn như trước đây. Chẳng hạn, chúng ta không thể phủ nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa chính trị với văn học, nhưng ngay từ những ngày đầu đổi mới, các văn nghệ sĩ và các nhà quản lý văn nghệ đã có những cuộc thảo luận và trao đổi rất cởi mở về vấn đề này, và đến nay, chúng ta không còn nói “văn học phải phục tùng chính trị” như trước đây, mà chính trị và văn học đã được nhìn nhận trong mối quan hệ biện chứng và hợp lý. Gần đây nhất, trong cuộc hội thảo của Hội đồng Lý luận - Phê bình Văn học - Nghệ thuật Trung ương ngày 14.1.2005, đồng chí Hồng Vinh, Phó trưởng ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, đã phát biểu: “... cần tránh các quan niệm cực đoan, đi tìm văn nghệ thuần tuý, hoặc xem văn nghệ chỉ là vũ khí phục vụ một cách thô thiển cho chính trị.” [1] Chúng ta không thể phủ nhận tính giai cấp của văn học, nhưng chúng ta không còn coi nó là đặc điểm thống soái của văn học, không còn coi nó là đặc điểm chi phối và quyết định mọi đặc điểm và tính chất khác của văn học. Chúng ta không còn coi phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa là phương pháp sáng tác độc tôn như trước đây, mà coi đó là một trong những phương pháp sáng tác của văn học (thậm chí có người còn muốn cho tiêu huỷ ngay cả khái niệm “phương pháp sáng tác”?); và việc ngày nay, việc phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa ít được nhắc đến đã chứng tỏ nó chỉ là một trong những phương pháp bình đẳng với mọi phương pháp khác và không phải là một “tấm bùa hộ mệnh” cho nền văn học của chúng ta (?).
Đó là những thay đổi rất quan trọng và kịp thời. Cho nên không thể nói lý luận văn học hiện nay là đang hoàn toàn lúng túng, không theo kịp thời đại. Chúng ta đang có những nỗ lực chấn chỉnh từng bước để xây dựng một hệ thống lý luận văn học hoàn chỉnh. Rõ ràng, hệ thống lý luận văn học cũ đang có sự thay đổi đáng kể. Đó là một sự thay đổi không phải bằng những tuyên ngôn lý luận, mà là bằng những công việc thực hành trên thực tiễn: có nhiều khái niệm, phạm trù trước đây là những khái niệm, phạm trù trọng tâm, chủ đạo, nay trở thành những khái niệm, phạm trù thông thường, bình đẳng như mọi khái niệm, phạm trù khác.
Tuy nhiên vẫn phải công nhận rằng đây mới chỉ là những nỗ lực riêng lẻ của các nhà khoa học, chủ yếu là ở lĩnh vực nghiên cứu. Việc đưa các lý thuyết và phương pháp mới vào giáo trình giảng dạy ở bậc đại học hầu như vẫn chưa được thực hiện, hiện tại mới chỉ có sự giới thiệu một số lý thuyết và phương pháp ở bậc đào tạo sau đại học. Để có được một hệ thống giảng dạy lý luận văn học ở bậc đại học cũng như sau đại học, chúng ta cần phải có một sự hợp tác và nhất trí rộng rãi. Tôi nói như vậy là vì có một hiện tượng khá phổ biến là các nhà nghiên cứu của chúng ta mới chỉ làm việc theo kiểu ai biết việc người nấy, ít có sự hợp tác để đề ra một chủ trương hành động thống nhất. Chúng ta đã có rất nhiều cuộc hội thảo, nhưng kết quả hội thảo chỉ là một tập hợp các ý kiến, quan niệm, chứ chưa được biến thành một chương trình hành động thống nhất. Sau hội thảo, các nhà nghiên cứu và giảng dạy lại ai về làm việc của người nấy, để rồi lại chuẩn bị cho một cuộc hội thảo tiếp theo khi nào có kinh phí. Và tình hình lý luận vẫn là một bức tranh chắp vá, ghép mảnh, vì thế đôi khi không tránh khỏi những mâu thuẫn không đáng có. Có những khái niệm tưởng chừng như đã được nhất trí cao qua các cuộc hội thảo, trao đổi, qua thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy, ấy vậy mà vẫn xuất hiện những hiện tượng tiền hậu bất nhất trong quan niệm về chúng, thậm chí ngay cả ở một nhà nghiên cứu.
Ví dụ như đối với trường hợp của khái niệm “văn học so sánh”. Đây là một trong những khái niệm đã phải trải qua những bước thăng trầm suốt hàng chục năm mới được khẳng định. Cho đến nay, qua nhiều cuộc trao đổi trên báo chí và hội thảo, nó đã giành được sự đánh giá khá nhất trí, đã được đưa vào giảng dạy ở bậc đào tạo sau đại học của nhiều trường đại học với tư cách là một môn học. Một số trường đang muốn mở một bộ mônvăn học so sánh, Viện Văn học vừa mới thành lập Ban Văn học So sánh. Ấy vậy mà gần đây nhất, trong cuốn Từ điển văn học (bộ mới)do Nxb. Thế giới ấn hành năm 2004, các tác giả của cuốn từ điển này - thuộc trong số những người tích cực nhất đang chủ trương thành lập bộ mônvăn học so sánh - vẫn nhắc lại cái quan niệm lỗi thời cách đó ba mươi năm: “Văn học so sánh [là] một trong những trường pháinghiên cứu văn học xuất hiện ở châu Âu thế kỷ XIX, chuyên nghiên cứu những mối liên hệ văn học quốc tế, đối với các nhà nghiên cứu văn học mácxít thì được quan niệm như một phương pháp cụ thểđể tiến hành nghiên cứu văn học” [tr. 1961] ( tôi nhấn mạnh). Một nhà nghiên cứu bình thường nhất cũng không thể quan niệm bộ mônlà trường pháihoặc là một phương pháp cụ thể. Rõ ràng, tính nhất trí thống nhất là một yêu cầu hàng đầu của việc xây dựng một thệ thống, nhất là một hệ thống phức tạp như lý luận văn học. Điều này cũng cho thấy: sự nhất trí phải được thực hiện ở mọi cấp độ, đặc biệt là ở cấp độ khái niệm.
Có thể kể thêm một khái niệm chủ chốt của lý luận văn học mà cho đến nay ở ta nó vẫn chưa nhận được sự nhất trí trong quan niệm, đó là khái niệm “ ngôn ngữ văn học”. Các tác giả của cuốn Từ điển thuật ngữ văn học(Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1992) giải thích khái niệm này theo hai nghĩa: một nghĩa là chỉ thứ ngôn ngữ chuẩn mực của một quốc gia, nghĩa thứ hai được các tác giả quan tâm hơn là chỉ thứ ngôn ngữ “được dùng trong văn học”. Các cuốn từ điển tiếng Việt hiện nay cũng giải thích thuật ngữ này theo hai nghĩa như vậy. Còn cuốn 150 thuật ngữ văn họccủa Lại Nguyên Ân (Nxb. Đại học QGHN, Hà Nội, 1999), và cuốn Từ điển văn học (bộ mới)[2004, với mục từ “ngôn ngữ văn học” cũng do Lại Nguyên Ân viết] thì coi nó là ngôn ngữ chuẩn mực phổ thông của một quốc gia, đối lập với ngôn ngữ thông tục, với các phương ngữ khu vực và với các phương ngữ xã hội. Tác giả Lại Nguyên Ân cũng phân biệt “ngôn ngữ văn học” với “ngôn ngữ của văn học” mà ông xác định nó bằng một khái niệm khác là “ngôn từ nghệ thuật”. Trong khi đó thì cuốn Từ điển thuật ngữ văn họcnói trên không có mục từ “ngôn từ nghệ thuật” [tức “ngôn ngữ của văn học”], bởi vì mục từ “ngôn ngữ văn học” đã đảm nhiệm chính cái nhiệm vụ của “ngôn ngữ của văn học”. Vậy chúng ta phải giải quyết sự khác biệt quan niệm này ra sao đây? Và chúng ta sẽ phải giảng dạy như thế nào cho học sinh và sinh viên?
Sự thực là ở các nước trên thế giới người ta phân biệt rất rõ hai khái niệm: “ngôn ngữ văn học” và “ngôn ngữ của/trong văn học”. Và người ta cũng định nghĩa rất rõ rằng “ngôn ngữ văn học” là ngôn ngữ chuẩn quốc gia; còn “ngôn ngữ của/trong văn học” là thứ ngôn ngữ được phép sử dụng tất cả các loại ngôn ngữ, trong đó có cả ngôn ngữ nói [tức “văn nói” hay “khẩu ngữ”], cả ngôn ngữ thông tục, phương ngữ, biệt ngữ, v.v... Có thể do hạn chế của tiếng Việt mà chúng ta đã không thống nhất được là nên dùng các thuật ngữ như thế nào để phân biệt được hai khái niệm nói trên.
Nhưng vấn đề không chỉ dừng lại ở sự thiếu nhất trí về mặt lý luận, mà sự thiếu nhất trí này đã dẫn đến những sai lầm trong việc áp dụng lý luận vào thực tiễn phê bình văn học. Theo định nghĩa thì khái niệm “ngôn ngữ văn học” có liên quan chặt chẽ với khái niệm “ngôn ngữ viết”. Văn tự chính là hình thức tiêu chuẩn của ngôn ngữ văn học được hiểu là ngôn ngữ chuẩn mực. Như thế, khái niệm “ngôn ngữ viết” (hay “văn viết”) gần như đồng nghĩa với “ngôn ngữ văn học”. Còn ngôn ngữ của văn học thì không có sự hạn chế nào cả. Và do không phân biệt được hai khái niệm này, cho nên vừa qua có người đã phê phán Nguyễn Ngọc Tư là sử dụng cả “văn nói” trong Cánh đồng bất tận. Liệu phê phán như vậy thì có ấu trĩ quá không: Bởi lẽ, có nhà văn nào mà không sử dụng văn nói trong sáng tác? Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng viết: “Ghế trên ngồi tótsỗ sàng”, “ Cò kèbớt một thêm hai”, “ Chém chacái số hoa đào”, v.v... Rõ ràng, việc thiếu sự hợp tác và nhất trí trong nghiên cứu lý luận đã làm cho ngành phê bình văn học của chúng ta mắc phải những bất cập như thế nào trong việc đánh giá thực tiễn văn học.
Việc xây dựng một hệ thống lý luận văn học không phải là cái gì hoàn toàn mới. Chúng ta hoàn toàn có thể và cần phải tiếp thu các thành tựu lý luận của thế giới. Và đó là điều chúng ta đã và đang làm. Song, trong việc tiếp thu này, phải thẳng thắn công nhận rằng có những điều chúng ta làm chưa được thoả đáng. Điều này có khi là do chúng ta đã chịu sự ảnh hưởng của những quan niệm giáo điều một thời, ví dụ như trường hợp của khái niệm “văn học so sánh” trên đây. Nhưng cũng có khi chỉ đơn thuần là do hạn chế của hàng rào ngôn ngữ. Ví dụ như trường hợp của khái niệm “ngôn ngữ văn học” mà tôi vừa nêu ở trên; hay như khái niệm “lạ hoá” trong sáng tác văn học.
Lâu nay, nhiều cuốn sách lý luận và từ điển văn học của ta vẫn cho rằng khái niệm “hiệu ứng lạ hoá” là do nhà soạn kịch hiện đại người Đức Bertolt Brecht đưa ra. Và họ đồng nhất khái niệm của Brecht với khái niệm “lạ hoá” do nhà nghiên cứu người Nga V. Shklovski theo chủ nghĩa hình thức đề xướng từ năm 1917. Khái niệm của Brecht trong tiếng Đức là “ Verfremdungseffekt”, viết tắt là “ V-Effekt”, còn khái niệm của Shklovski trong tiếng Nga là “ ostranenie”. Nếu chỉ xét về mặt ngữ nghĩa thì hai khái niệm của hai nhà văn này đều có thể được dịch là “ lạ hoá” [tức là “làm cho xa lạ”], và có thể là lý thuyết “ ostranenie” của Shklovski đã gợi ý cho Brecht để ông xây dựng thủ pháp V-Effektcủa mình, nhưng trên thực tế, mỗi khái niệm trên đây lại được tác giả của nó quan niệm hoàn toàn khác nhau. Brecht dùng khái niệm Verfremdungseffektđể chỉ một thủ pháp đặc thù của loại hình sân khấu tự sự [2] của ông nhằm chống lại sân khấu truyền thống. Ông quan niệm rằng Verfremdungseffektlà một thủ pháp sân khấu làm cho người xem kịch luôn luôn có ý thức được rằng mình đang xem biểu diễn một vở kịch chứ không phải là chứng kiến một câu chuyện thực đang diễn ra: sân khấu là sân khấu chứ không phải là thế giới thực tại. (Trong khi đó thì sân khấu truyền thống đòi hỏi diễn viên phải hoà nhập với nhân vật, tức là phải “nhập vai” để làm cho vở kịch giống như đời sống thật.) Để đạt được hiệu ứng nói trên, Brecht đưa vào sân khấu những lời thuyết minh giải thích hoặc tranh ảnh minh hoạ chiếu lên một màn hình trên sân khấu; diễn viên thì không nhập vai vào nhân vật, mà tự tách mình ra khỏi cảnh diễn để giới thiệu tóm tắt cảnh diễn hoặc hát một số bài hát; còn sân khấu diễn thì được bài trí bằng đèn điện sáng trưng và chăng các dây thừng bao quanh, tất cả là để giữ cho khán giả luôn có ý thức là mình đang có mặt trong một nhà hát. Chính vì vậy mà trong các cuốn sách nghiên cứu và tra cứu in bằng tiếng Anh, ngoài cách dịch thuật ngữ này là alienation effect, viết tắt là a-effect, người ta còn dịch là distancing effect; còn trong các cuốn sách tiếng Pháp thì người ta dịch là effet de distanciation. Theo cách dịch như vậy, chúng ta cũng nên dịch thuật ngữ này sang tiếng Việt là hiệu ứng dãn cách, tức là hiệu ứng tạo khoảng cách giữa người xem với sân khấu. Tất nhiên chữ “khoảng cách” ở đây được dùng theo nghĩa bóng nhiều hơn, tức là giữa khán giả và cảnh diễn phải có một khoảng xa cách nhất định. (ý thức được vấn đề này, giới sân khấu Việt Nam đã dịch thuật ngữ này là “gián cách”. Nhưng rất tiếc, “gián cách” không phải là thuật ngữ thích hợp với khái niệm Verfremdungseffektcủa Brecht, vì, theo từ điển tiếng Việt, “gián cách” là “khoảng cách theo chiều ngang”.)
Còn thuật ngữ ostraneniecủa Shklovski lại có nghĩa là một thủ pháp trong sáng tác văn học có nhiệm vụ làm cho sự vật được miêu tả trở nên khác lạ, làm như thể sự vật mới xuất hiện lần đầu, điều này chính là để khơi dậy cảm xúc mới mẻ của người đọc, không để cho họ bị chi phối bởi các thói quen và định kiến vô thức có sẵn về đối tượng nhận thức. Chính vì vậy mà các cuốn sách lý luận và bách khoa thư bằng tiếng Anh đều dịch thuật ngữ này là “ defamiliarization”, tức là “làm cho khác lạ”. Do đó chúng ta cũng có thể dịch thuật ngữ của Shklovski sang tiếng Việt là “ lạ hoá”. Cần phân biệt thêm rằng trong khi Shklovski coi“ lạ hoá” là một thủ pháp đương nhiên của các nhà viết văn xuôi, thì Brecht lại có ý thức đưa ra thủ pháp“ dãn cách” như là một thủ pháp cách tân của riêng mình để cải cách sân khấu truyền thống. Có lẽ vì ý thức được sự khác biệt giữa hai khái niệm và hai quan niệm của Brecht và Shklovski, cho nên các nhà khoa học trên thế giới đã không đồng nhất hai quan niệm này làm một và không dịch hai khái niệm đó bằng một thuật ngữ chung. Do vậy, có lẽ chúng ta cũng nên xem xét lại vấn đề này để trả lại vị trí đích thực cho từng khái niệm trong hệ thống lý luận văn học mà chúng ta đang muốn xây dựng. Còn nếu có dịch hai khái niệm đó bằng cùng một thuật ngữ “lạ hoá”, thì cũng nên phân biệt rõ ràng hai quan niệm của hai tác giả, chứ không nên đồng nhất hai quan niệm của họ với nhau như hiện nay nhiều người đang chủ trương. Cần phải nói thêm rằng theo từ điển bách khoa thư Britannicacủa Anh, thì Brecht còn tìm thấy nguồn gợi ý cho thủ pháp V-Effektcủa mình ở lý thuyết về sự “ tha hoá” trong triết học của Hegel và của Mác. Chính vì vậy, thuật ngữ alienationở những chỗ khác còn được dịch là “tha hoá” [trong tiếng Hán, “tha” nghĩa là “lạ”]. Xem thế thì thấy lý thuyết ostraneniecủa Shklovski cũng chỉ là một trong những nguồn gợi ý cho Brecht mà thôi, chứ không phải ông phát triển lý thuyết của Shklovski để xây dựng nên lý thuyết kịch tự sự của mình.
Những điều chưa thoả đáng trên đây cũng chứng tỏ là chúng ta chưa tuân thủ nguyên tắc hệ thống một cách nghiêm ngặt trong việc tiếp thu lý luận văn học của thế giới. Vấn đề về khái niệm “lạ hoá” nói trên không làm thành một hệ thống mà là hai hệ thống với hai quan niệm khác nhau. Việc đồng nhất chúng làm một sẽ phá vỡ hệ thống và làm nhiễu loạn sự tiếp nhận các lý thuyết mỹ học.
Tính hệ thống có thể có mặt ở cấp vĩ mô, như hệ thống các lý thuyết, hệ thống các phạm trù, khái niệm, v.v... Nhưng tính hệ thống cũng có thể có mặt ở một cấp độ vi mô, với nghĩa là mỗi một vấn đề cũng có thể làm thành hoặc được trình bày thành một hệ thống, ví dụ như việc trình bày các quan niệm vềchủ nghĩa hậu hiện đại.
Về chủ nghĩa hậu hiện đại, hiện ở nước ta đã có rất nhiều quan niệm khác nhau được giới thiệu, trong đó có cả những quan niệm mâu thuẫn nhau: ví dụ như có một quan niệm chủ đạo của Lyotard coi chủ nghĩa hậu hiện đại là một phản ứng chống lại tính toàn trị “đại tự sự” [hay “chuyện lớn”] của chủ nghĩa Mác, trong khi đó có một nhà khoa học nước ngoài khác lại coi chủ nghĩa hậu hiện đại có đặc điểm giống với chủ nghĩa Mác và do vậy có khả năng dung hợp với chủ nghĩa Mác. Vậy nếu chúng ta tiếp thu cái quan niệm sau thì liệu có mâu thuẫn với hầu hết những quan niệm về [chủ nghĩa] hậu hiện đại của phương Tây không? Và quan trọng hơn là như thế thì liệu chúng ta có hiểu hết được bản chất của các quan niệm về [chủ nghĩa] hậu hiện đại để có thể phê phán và tiếp thu chúng một cách đúng đắn không? ở đây, tôi nói “phê phán và tiếp thu các quan niệm về[chủ nghĩa] hậu hiện đại” chứ không nói phê phán và tiếp thu “ chủ nghĩahậu hiện đại”, bởi lẽ, vấn đề “tồn tại hay không tồn tại” chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn đang là một vấn đề để ngỏ. Một lần nữa, chúng ta thấy yêu cầu về sự hợp tác và nhất trí trong nghiên cứu có một ý nghĩa quan trọng như thế nào. Với tình hình lý luận của nước ta như vậy, chúng ta sẽ đánh giá triển vọng của nó ra sao?
2. Triển vọng của lý luận văn học Việt Nam trong thời kỳ mới
Nhìn nhận tình hình lý luận văn học của nước ta hiện nay, tôi thấy nổi bật lên một đặc điểm là tính khoa học có xu hướng đang được nâng cao. Đây là một xu hướng đáng mừng, vì tính khoa học sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để chúng ta thực hiện công việc phê bình văn học một cách chính xác, khi mà vẫn còn có người chủ trương phê bình văn học không cần tính chuyên nghiệp, rằng phê bình là nghệ thuật chứ không phải khoa học. Nhưng tính khoa học không hề mâu thuẫn với tính nhạy cảm của cá nhân trong nghiên cứu lý luận và thẩm định giá trị của tác phẩm văn học. Tính khoa học cũng không đồng nghĩa với tính hàn lâm, lại càng không loại trừ và mâu thuẫn với tính báo chí trong phê bình văn học. Do đó, trong nghiên cứu, chúng ta không nên có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình lý luận và phê bình, có chăng chỉ là phân biệt lý luận và phê bình nghiêm túc với lý luận và phê bình phù phiếm. Tôi nói như vậy là vì hiện nay, trên báo chí, đặc biệt là trên báo mạng, nhiều bài viết được gọi là phê bình thực ra chỉ là những bài điểm sách, giống y với tình trạng những năm 30 của thế kỷ trước mà Hoài Thanh đã phê phán. Rất may, những bài viết như vậy chỉ dừng lại ở lĩnh vực được gọi là phê bình, còn nhìn chung, lĩnh vực lý luận đang có sự đầu tư chiều sâu của nhiều nhà nghiên cứu để đưa ra những công trình có tầm cỡ. Tôi được biết, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đang có một đề tài cấp nhà nước về tổng kết tình hình lý luận văn học trên thế giới và Việt Nam . Đó là một công việc rất nên làm và cần phải làm một cách thật sự khoa học và có hệ thống. Hy vọng đây sẽ là dịp để các nhà khoa học phát huy tinh thần hợp tác trong nghiên cứu, tiến tới xây dựng được một bộ giáo trình lý luận hoàn chỉnh mang tính đổi mới của thời đại, để chúng ta sẽ không còn phải nghe mãi một điệp khúc: “lý luận cũ không còn đáp ứng, lý luận mới thì chưa hoàn chỉnh”. Đó cũng là một triển vọng đáng khích lệ.
Với một xu hướng khoa học như vậy, và để khắc phục tình trạng đông cứng, trì trệ, không có khả năng cập nhật, tính mở của hệ thống lý luận mới của chúng ta cũng đang được nhấn mạnh hơn bao giờ hết. Khoa học là vô cùng, nâng cao tính khoa học tức là phải tôn trọng tính mở của hệ thống lý luận. Tuy nhiên, tính mở hoàn toàn không đồng nghĩa với tính tuỳ tiện.
Để biện hộ cho tính mở, hiện tại cũng có ý kiến cho rằng thực tiễn thường là sinh động và phong phú hơn lý thuyết. Chẳng hạn, có người cho rằng một thực tiễn, nếu nó không phù hợp với các tiêu chuẩn của một loại hình nghiên cứu nào đó mà nó được gán cho, thì ta có thể gọi nó là một loại hình mở, phi truyền thống, rằng nó không chấp nhận việc “gọt chân cho vừa giày”. Đây là một hình ảnh so sánh thoạt nghe thì thấy rất hay, nhưng xét kỹ thì thấy đây là một lối so sánh khập khiễng, sai cấp độ. Vấn đề ở đây không phải là gọt chân cho vừa giày, mà là phải thay thế các phạm trù, khái niệm, thậm chí phải đề xuất một phạm trù, khái niệm mới cho phù hợp với thực tiễn. Giày không vừa thì ta chỉ việc thay cỡ, chẳng việc gì phải gọt chân, nhưng vẫn phải gọi đó là giày, và giày vẫn phải là một thứ để dùng cho đôi chân chứ không thể là thứ gì khác; còn nếu một hiện tượng thực tiễn không phải là đôi chân mà là đôi tay, thì ta phải “thay thế khái niệm”, phải dùng thứ khác như là găng tay cho phù hợp chứ không phải là giày, và ta phải gọi nó là “găng tay” chứ không thể cứ gọi là giày và bảo rằng đó là loại giày “hiện đại”, giày “mở”, giày “phi truyền thống”. Viết tiểu luận thì phải gọi là tiểu luận, chứ không thể bảo rằng đây là loại chuyên luận “mở”, “phi truyền thống”. Chúng ta đã có cái khung “tiểu luận” để chứa đựng những bài viết thuộc loại này, chẳng việc gì phải gọt giũa một bài tiểu luận nào đó để xếp nó vào “đôi giày chuyên luận”, nhưng cũng không vì thế mà phải gọi nó là “chuyên luận mở”, “chuyên luận phi truyền thống”. Đó chính là tính chặt chẽ của hệ thống các khái niệm. Tính chặt chẽ này hoàn toàn không hề mâu thuẫn với tính mở.
Tính mở của hệ thống có hai cấp độ: + Thứ nhất, một hệ thống có thể phát hiện và thu nạp thêm nhiều thành phần mới, cụ thể đối với hệ thống lý luận văn học thì các thành phần mới có thể là các lý thuyết, các phương pháp, các khái niệm, các phạm trù, v.v... + Thứ hai, một thành phần trong một hệ thống cũng có thể thu nạp và phát triển thêm những tiêu chuẩn mới, nhưng phải đảm bảo rằng những tiêu chuẩn mới đó không mâu thuẫn với những tiêu chuẩn cũ. Bởi lẽ nếu mâu thuẫn, thì chúng sẽ phá vỡ thành phần đó hoặc là tạo ra một thành phần hoàn toàn mới. Ví dụ, bi kịch được cộng thêm những tiêu chuẩn của hài kịch sẽ biến thành một thể tài mới là bi - hài kịch; truyện ngắn nếu được phát triển thêm những tiêu chuẩn của tiểu thuyết thì nó sẽ biến thành tiểu thuyết; tiểu luận khi có đủ các tiêu chuẩn của chuyên luận thì nó sẽ biến thành một chuyên luận, v.v...
Tóm lại, xây dựng hệ thống lý luận văn học là một công việc rất lớn. Nó không thể là công việc của một người hoặc của một vài người, mà nó đòi hỏi một sự hợp tác rộng rãi của cả giới nghiên cứu và giảng dạy. Hy vọng sau mỗi cuộc hội thảo, tranh luận, chúng ta càng tiến gần tới một sự hợp tác rộng rãi như vậy.
Hà Nội, tháng 8-2006.
(*)Viện Thông tin KHXH.
[1]Hồng Vinh “Phát triển nền tảng lý luận đáp ứng nhu cầu xây dựng nền văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Văn nghệ, số 9, ngày 26-2-2005.
[2]Tiếng Anh: “epic theatre”. Về loại hình sân khấu tự sự này, ngoài tính từ “epic”, các cuốn sách tra cứu bằng tiếng Anh còn chua thêm tính từ “narrative”, “nondramatic” để giải thích rõ thêm đây là loại hình sân khấu thiên về “kể” các sự kiện chứ không “diễn” theo kiểu kịch truyền thống. Cho nên không nên dịch thuật ngữ “epic theatre” là “kịch/sân khấu sử thi” như một nghĩa của tính từ “epic” có thể gợi ra.
Nguồn: nhandan.com.vn, 13/09/2006








