Lục lạc lá ổi dài
Đây là một cây nhỏ, cao 1 - 1,5m, nhiều cành, mặt ngoài cành non có lông mịn, tuỷ rỗng. Lá đơn hình mác, dài 6 - 15cm, rộng 3 - 5cm, đầu lá tù hay hơi nhọn, giữa phiến thuôn dần xuống cuống lá. Mặt dưới lá có lông mịn. Cụm hoa là chùm dài 25 - 30cm ở ngọn thân và đầu cành. Hoa màu vàng tươi, tràng có cánh cờ dài 2cm, gần như vuông, 2 cánh hẹp, 3 cánh thìa có mỏ cong, 10 nhị không bằng nhau; bầu nhẵn; cuống hoa dài 1cm, có 2 lá bắc con đính ở đầu cuống. Quả loại đậu, dài 4 - 5cm, đầu có mũi nhọn cong, khi khô màu nâu, mang nhiều hạt hình thận, màu nâu đỏ. Mùa hoa: tháng 7 - 9, mùa quả: tháng 10 - 12.
Cây này có nguồn gốc ở Đông Namchâu Á và Polynesia. Ở Việt Nam, nó mọc hoang ở nhiều nơi, từ Bắc vào Nam và được trồng để làm thuốc.
Lục lạc lá ối dài có các ancaloid như monocrotalin (2,9%), assamicadin. Thử trên súc vật cho thấy chất monocrotalin có tác dụng ức chế nhiều loại tế bào ung thư; tiêm tĩnh mạch với liều 2 - 6 mg/kg gây hạ huyết áp, ức chế nhẹ biên độ và tần số hô hấp trên súc vật thí nghiệm.
Theo tài liệu, hạt và rễ có tác dụng khu phong, trừ thấp, chỉ huyết, tiêu thũng, tiêu viêm. Bệnh viện Y học dân tộc tỉnh Vĩnh Phúc đã dùng toàn cây chữa đau dây thần kinh toạ. Mỗi ngày dùng 100g lá khô, sắc với 400ml nước. Đun kỹ, còn 200ml, chia 2 lần uống trong ngày. Mỗi đợt điều trị khoảng 1 - 2 tuần. Kết quả tốt. Ngoài ra, nó còn được dùng chữa đau lưng, thấp khớp cũng có kết quả.
Ở Trung Quốc, toàn cây được dùng trị ho ra máu, sưng phù, chốc lở, huyết áp cao (lấy 60g rễ tươi hầm với thịt lợn, chia làm 2 lần ăn). Dùng ngoài trị nhọt và viêm da mủ (lá tươi giã nát, thêm mật ong rồi đắp vào chỗ đau). Ở Lào, người ta dùng rễ trị sỏi bàng quang.
Đây là cây họ Đậu, dễ trồng từ hạt, lại làm tốt đất do hệ rễ có nhiều nốt sần. Cả cây còn dùng làm phân xanh và thức ăn gia súc, vì trong hạt chứa nhiều protein.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 351, 1 - 3 - 2008, tr 18







