Loại từ không chỉ xuất hiện trước các danh từ có biệt loại
1. Nếu phát biểu rằng trong tiếng Việt loại từ có thể xuất hiện trước các danh từ chỉ vật, chất liệu thì chắc chắn sẽ bị coi là trái với quan niệm hiện thời của ngữ phát tiếng Việt. Tại sao vậy?
2. Như mọi người đều biết, đang như là quy tắc trong ngữ pháp học tiếng Việt những điều sau đây:
a. Loại từ chỉ xuất hiện trước các danh từ có biệt loại (đơn loại, đơn thể).
b. Loại từ không xuất hiện trước các danh từ không có biệt loại (không đơn loại, không đơn thể).
c. Danh từ chỉ vật chất, chất liệu (như vôi, cát, đất,gỗ, mỡ thịt, muối, mắm, dầu, gạo,vàng, bạc, giấy, mực...)không phải là danh từ có biệt loại, mà là danh từ không có biệt loại.
3. Với các quy tắc trên người ta không coi các tổ hợp kiểu tờ giấy, hòn đất, thanh gỗ là tổ hợp “loại từ + danh từ”.
Do vậy chẳng hạn, tờ “phải tách làm đôi”:tờ trong tờ giấy phải cùng loại với cục trong cục vàng (nghĩa là không có tư cách của loại từ) còn tờ trong tờ báo là cùng loại với con (gà), cây (cam), cuốn (sách)(Nghĩa là có tư cách của loại từ). [Nguyễn Tài Cẩn, 1, tr. 198] .
Theo quy tắc này, ta sẽ có còn một số trường hợp khác như: thanhkiếm, (khác với thanhgỗ), hònbi ( khác với hònđất )....vì danh từ đi sau ( gỗ, đất) đều là những danh từ chỉ vật chất chất liệu (chứ không chỉ đồ đạc, sự vật như: kiếm, bi). [Lí Toàn Thắng, 6, tr. 218] .
4. Nếu triệt để theo quy tắc đã trình bày, tất yếu chúng ta sẽ đối diện với ít nhất (TĐN nhấn mạnh) là ba trường hợp như dưới đây:
a. Trường hợp tờ giấy thông hành, tờ thông hành...
b. Trường hợp thanh nứa thanh tre, thanh giang...
c. Trường hợp bức (tranh) sơn dầu, bức (tranh) bột màu...
Ở trường hợp a đối với người Việt thì tờ giấy thông hànhhay tờ thông hànhlà một vật (TĐN nhấn mạnh) tuỳ thân đi đường. Trong ngữ thức bản ngữ của người Việt thì tờ thông hànhvà tờ giấy thông hànhđều cùng là một tờ như nhau. Nay vì chữ giấy (danh từ chỉ (vật chất chất liệu)) mà bảo đó là hai tờkhác nhau thì thật khó thuyết phục. Chắc hẳn rất ít người tán thành.
Ở trường hợp b, chúng ta sẽ phải tách thanhra làm hai tuỳ thuộc quan niệm của chúng ta về tre, nứa, giang. Thanh có tư cách loại từ nếu chúng ta coi tre, nứa, giangthuộc nhóm danh từ chỉ động vật, thực vật; thanh không có tư cách loại từ nếu chúng ta coi tre, nứa, giangthuộc nhóm danh từ chỉ vật chất chất liệu.
Ở trường hợp c, phải coi bứctrong bứctranh sơn dầulà loại từ, còn bứctrong bức sơn dầukhông phải là loại từ vì rằng sơn dầu( sau bức) là danh từ chỉ vật chất,chất liệu, còn tranh (saubức) là danh từ chỉ đồ đạc, sự vật.
Phân tích thêm: chiếctrong chiếc kemcũng phải tách làm đôi, một đằng là chiếc - loại từ (nếu coi kemlà danh từ chỉ sự vật) một đằng chiếc- không phải loại từ (nếu coi kem là danh từ chỉ vật chất chất liệu) [X. định nghĩa kem,Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên].
Cũng vậy trong bài thơ:
THẰNG KEM
Ai kem nào, ai kem nào
Thằng kem có cái giọng rao khàn khàn
Lớp trống một khoảng ghế, bàn
Một chiếc khăn đỏ người quàng đánh quên
Nào ai kem, nào ai kem
Bạn bè có đứa quên tên nó rồi
Khi cần chỉ gọi: kem ơi
Vài tờ bạc lẻ thay lời hỏi han
Thằng kem có cái giọng khàn
Nó đi khắp xóm khắp làng mà rao.
[ Văn học ViệtNamsau Cách mạng tháng Tám. Văn học thiếu nhi. Nxb văn học, H, 1995, tr.801]
thằngtrong thằng kemsẽ có bản chất từ loại tuỳ thuộc quan niệm của chúng ta như thế nào về tính chất của từ loại danh từ kem.
Cần chú ý rằng người Việt Nam sẵn sàng theo mô hình thằng kemcấu tạo ra các tổ hợp thằng cháo lòng, thằng tào phớ, thằng vôi cát, thằng sắt thép, thằng xăngdầu...Điều này đồng nghĩa với sự hiện diện hiển nhiên của mô hình “thằng+ danh từ chỉ vật chất chất liệu”.
Trước sự kiện ngôn ngữ này thử hỏi liệu có nhà Việt ngữ học nào phát biểu rằng trong mô hình ấy thằngkhông có tư cách của loại từ, bởi lẽ nếu thế thì tất yếu sẽ không thừa nhận thằng (bán) kem và thằng (đạp) xích lôlà cùng một cấu trúc cú pháp. Nếu thế, cú pháp tiếng việt lại tiếp tục nan giải thêm sang một vấn đề khác.
Không nghi ngờ gì nữa, cách phân tích ngữ pháp “tờ” ra làm đôi là nặng nề hình thức, không phù hợp với cảm thức bản ngữ, làm cho ngữ pháp tiếng Việt phức tạp không cần thiết.Các nhà việt ngữ học sẽ có thái độ như thế nào trước tình hình đó.
5.Thiết nghĩ, cần phải điều chỉnh lại quan niệm ngữ pháp hiện hành. Điều chỉnh theo hướng: thống nhất coi thanh trong thanh gỗ, thanh tre, thanh nứa, thanh sắtcũng có tư cách loại từ như thanhtrong thanh gươm, thanh kiếm,thống nhất coi tờ trong tờ giấy cũng có tư cách loại tờ trong tờ báo, coi chiếc trong chiếc kem, chỉ là một từ chiếc - loại từ thằng trong thằng kemchỉ là một từ thằng- loại từ, nói cách khác nên thừa nhận loại từ có thể xuất hiện trước danh từ chỉ vật chất chất liệu. Việc thừa nhận như thế đem lại nhiều lợi ích hơn cho ngữ pháp tiếng Việt.
Thứ nhất, làm cho ngữ pháp có học tiếng Việt bao quát được các sự kiện thực tế thực tiễn cùng loại, vượt lên một tầm khái quát mới phù hợp hơn với bản thức bản ngữ.
Thứ hai,làm cho ngữ pháp học tiếng Việt và sự phản ánh ngữ pháp tiếng Việt trong từ điển tiếng Việt có được một nét chung trước cùng một sự kiện ngôn ngữ như nhạu, và cùng phản ánh được cảm thức ngữ pháp chung. Xin tham khảo bản thức ngữ pháp về thanh trong định nghĩa dưới đây của Từ điển tiếng Việt[7]: “ thanh 1 d. từ dùng để chỉ từng đơn vị những vật có hình dài, mỏng, nhỏ bản . Thanh gươm, Thanh nứa,Thanh sắt(TĐN nhấn mạnh)”.
Thứ ba,tạo ra việc thống nhất hơn trong việc miêu tả ngữ pháp tiếng Việt, giữa lí luận và thực tế phân tích ngữ pháp. Bởi vì nếu thừa nhận loại từ có thể xuất hiện trước danh từ chỉ vật chất, chất liệu chúng ta sẽ không còn trắc trở bởi các trường hợp tờ giấy thông hành, chiếc kem, thằng kem, thằng xích lô...như thực tiễn đã nêu.
Thứ tư, nhờ tránh được trắc trở trong việc phân tích ngữ pháp đối với những trường hợp như trên, mà do đó chúng ta có được một sự phân tích chung khái quát hơn đối với các tổ hợp tờ nào, tờ này, tờ to, tờ nhỏ, tờ rách, tờ lành, tờ đẹp, tờ xấu, tờviết tay, tờ đánh máy...Nói cách khác việc đưa tổ hợp kiểu tờ giấy vào cùng một loại với các tổ hợp nào, tờ này... tờ viết tay, tờ đánh máy,...tờ A4, tờ Nhân dân... khái quát thành dạng tổng quát chung “Loại từ + X” trong đó X bao gồm không chỉ danh từ mà cả đại từ, đọng từ, tính từ, số từ....; việc làm này khiến cho ngữ pháp tiếng Việt không chỉ phù hợp với cảm thức bản ngữ, mà còn mở đường đón nhận, giải thích đơn giản, nhất quán đối với cách dùng tờ kiểu:
“Nằm im dưới gốc cây tơ/ Nhìn xuân trải lụa trên tờ lá non”
[Tuyển tập Huy Cận, 9,tr.106]
“Lắng trong giai điệu ngọt ngào
Bông sen mới nhú, trái đào còn tơ/ Bóng chiều buông xuống ngẩn ngơ/ Vầng trăng mới mọc sau tờ lá xanh”
[Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 10]
Khi ấy, ngữ pháp tiếng Việt sẽ lập được hệ hình đối chiếu, xuyên suốt:
tờ giấy, tờ giấy thông hành, tờ thông hành, tờ báo, tờ giấy báo, tờ giấy đánh máy, tờ giấy vẽ, tờ giấy viết thư, tờ pơ luya, tờ viết tay, tờ đánh máy, tờ chưa đóng dấu, tờ to, tờ nhỏ, tờ đỏ, tờ xanh, tờ lành, tờ rách, tờ đẹp, tờ xấu, tờ giấy A4, tờ A4, tờ mười (10), tờ mười bốn (14), tờ này, tờ kia, tờ Nhân Dân, tờ Quân Đội...
Trong hệ đối chiếu này, các mô hình “tờ + danh từ”, “tờ + động từ”, “tờ + tính từ”, “tờ + số từ”, ... đều được dùng để trả lời cho hai câu hỏi khái quát “Tờ gì?”, “Tờ nào?”. Tại đây chúng ta sẽ nhận thấy những quy tắc lí thú:
a, Loại từ tờcó ý nghĩa chung khái quát nhất là ý nghĩa chỉ một phần tử (của một tập hợp tương ứng) đặc trưng.
b, Nếu muốn nhấn mạnh làm rõ mặt vật chất, chất liệu làm nên phần tử tờthì X thường phải thuộc nhóm danh từ chỉ vật chất, chất liệu:
- Tờ gì?
- Tờ nào? - Tờ giấy (pơ luya)
c, Nếu muốn nhấn mạnh làm rõ mặt chức năng xã hội của phần tử tờ thì X thường phải thuộc danh từ chỉ đồ đạc, chỉ khái niệm trừu tượng:
- Tờ gì? - Tờ (giấy) pơ luya
- Tờ nào? - Tờ báo (Khoa học và Đời sống)
d, Nếu muốn nhấn mạnh làm rõ mặt thứ tự hoặc kích cỡ của phần tử tờ thì đơn giản chỉ là theo kiểu:
- Tờ nào? - Tờ mười (Tờ A4)
đ, Nếu chỉ cần nêu thuộc tính tên gọi hoặc thuộc tính tự nhiên của phần tử tờ thì đơn giản chỉ là theo kiểu:
- Tờ gì? - Tờ lá
- Tờ nào? - Tờ xanh (non)
- ...
Thứ năm, ngữ pháp học tiếng Việt (cả trên phương diện từ pháp, cả trên phương diện cú pháp) trở nên nhất quán và đơn giản khi phân tích các tổ hợp kiểu tờ giấy pơ luya, tờ giấy thông hành, tờ giấy báo, bức tranh sơn dầu, viên thuôc B 1, thanh kiếm gỗ, hòn bi đất, chiếc đũa tre, chiếc kem, thằng kem, thằng xích lô...
Người ta sẽ dễ dàng chỉ ra rằng trong mỗi một tổ hợp đang xét, các danh từ đứng sau loại từ đều có chức năng ngữ pháp là thành phần phụ, trong đó danh từ chỉ vật chất, chất liệu có chức năng ngữ nghĩa minh xác hoá các phương diện khác nhau về xã hội và về tự nhiên của phần tử do loại từ biểu thị.
6.Vẫn biết sự phân biệt ra danh từ sự vật, danh từ chỉ chất liệu được coi là một thành quả lâu đời của ngôn ngữ học đại cương và quy tắc loại từ không xuất hiện trước các danh từ chỉ chất liệu được coi là thành tựu lâu nay của Việt ngữ học, tuy nhiên từ những điều đã trình bày, ý kiến của chúng tôi là: ngữ pháp học tiếng Việt muốn đáp ứng tốt tình hình thực tiễn sinh động của tiếng Việt, không có cách nào khác là phải mạnh dạn nhìn nhận lại những thành quả đã đạt được, kịp thời điều chỉnh, bổ sung. Chỉ có như vậy ngữ pháp học của chúng ta mới đạt được sự thông nhất trên toàn cục, một toần cục có tác dụng định hướng cho những nghiên cứu chuyên sâu củng cố cho toàn cục, khiến cho lí luận ngữ pháp tiếng Việt trở nên phù hợp với thực tế, thực tiễn.
_______________________
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Tài Cẩn - Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb KHXH, H., 1975.
2. Nguyễn Tài cẩn - Ngữpháp tiếng Việt Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ, Nxb ĐH & THCN, H., 1975.
3. Đinh Văn Đức - Ngữ pháp tiếng Việt, Từ loại, Nxb ĐH & THCN, H., 1986.
4. Emeneau M.B - Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, 1951 ( Bản dịch tiếng Việt của trường ĐHTH Hà Nội)
5. Lê Văn Lí - Sơ thảo ngữ pháp tiếng Việt( Bản tiếng Việt – Sài Gòn, 1968)
6. Phan Ngọc - Thử trở lại câu chuyện loại từ. Trong “Những vấn đề ngừpháp tiếng Việt”.Nxb KHXH, H. 1988.
7. Lí Toàn Thắng - ngôn ngữ học tri nhận. Từ lí thuyết đại cương đến thựctiễn tiếng Việt. Nxb KHXH, H. 2005.
8. Từ điển tiếng Việt(Viện ngôn ngữ, Hoàng Phê chủ biên)
9. Ngữ pháp tiếng Việt(Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, Nxb KHXH, H., 1983)
10. Tuyển tập thơ Huy Cận, tập 1. Nxb Văn học, H., 1986.
11. Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Mai Văn Hai, Anh thương binh mù thổi sáo, 1998. KHXH, Hà Nội, 2001.
Nguồn: Ngôn ngữ & Đời sống, số 11 (121), 2005