Lê Văn Duyệt và lịch sử
Ngày 4-2-2008 vừa qua, Tạp chí Xưa và Nay – Hội KHLSVN cùng Ban Quý Tế Lăng Ông đã tổ chức lễ an vị tượng Lê Văn Duyệt. Đây là kết quả của cuộc tọa đàm cách nay 8 năm với sự đóng góp trí tuệ của nhiều nhà khoa học trong đó có nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng lúc đó với tư cách là Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học xã hội TP, chủ trì cuộc tọa đàm cùng với GS. Đinh Xuân Lâm (Phó Chủ tịch Hội KHLSVN), ông Dương Trung Quốc (Tổng thư ký Hội KHLSVN).
Nhân ngày giỗ đầu của ông Trần Bạch Đằng, Tạp chí Xưa và Nay xin lượt ghi lại ý kiến của ông tại cuộc tọa đàm với mong muốn đóng góp thêm tư liệu để các cấp có chức năng ở TP. HCM có cơ sở để xem xét lại việc đặt tên đường Lê Văn Duyệt hiện nay.
Trân trọng giới thiệu
…. Một cuộc tọa đàm – Ban tổ chức đã tự xem công việc của mình thật khiêm tốn, thậm chí không dùng danh nghĩa hội thảo – tuy dày công và nhiều tâm huyết, nhưng cũng chỉ mới “xới” lên được một số điều liên quan đến một nhân vật được coi là đặc biệt: Lê Văn Duyệt, trong cuộc đời riêng và trong bối cảnh lịch sử mà nhân vật ấy sống. Việc đặt Lê Văn Duyệt dưới nhiều lăng kính không chỉ để tìm hiểu, đánh giá mặt bằng về văn hóa và tín ngưỡng sâu sắc trong dan gian đến tận hôm nay. Nơi ông yên nghỉ được gọi là “Lăng”, dân gian nhiều lắm cũng chỉ dùng chức của ông – Tả quân - để gọi ông, còn bình thường thì cung kính gọi bằng “Ông”. Ở đây, một danh xưng chung lại được dùng để chỉ một con người cụ thể: “Ông” tức là Lê Văn Duyệt> Các danh tướng khai cơ của Nguyễn Ánh thì có nhiều: Tiền quân Nguyễn Văn Thành, Hậu quân Võ Tánh, Hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức, thế nhưng không ai giành được sự tôn kính mang màu sắc tôn giáo ấy như ông. Chúng ta đều biết, ở Nam bộ, trong khoảng thời gian dài và có lẽ cũng còn sót lại đến tận hôm nay, một câu thề độc: “Nếu tôi gian dối, thì xin thề trước lăng Ông, tôi sẽ bị vặn họng như con gà mà tôi mang đến cúng Tả quân”. Gạt đi phần thầy bói cùng các loại mê tín chung quanh huyền năng nơi cõi âm của Lê Văn Duyệt, chúng ta nhận thức rằng sự tôn trọng kia liên quan chủ yếu đến công lao của ông đối với miền đất mà ông trấn nhậm. Người Pháp không diễn tả như chúng ta, nhưng họ gọi Lê Văn Duyệt là “Thống chế” (Maréchal), tức Nguyên soái, hơn nữa, “Phó vương” (Viceroi) những chức danh không có trong phẩm hàm của triều Nguyễn. Như vậy, xuất phát từ văn hóa dân gian, chúng ta có thêm cơ sở để hiểu lịch sử.
Sự khác nhau trong cách đánh giá Lê Văn Duyệt không chỉ mới có sau này. Sau loạn Lê Văn Khôi, Lê Văn Duyệt bị gọi là “Quyền yêm” (Thái giám lộng quyền), theo bản án của vua Minh Mạng. Mãi đến thời Tự Đức, chiếc xiềng trên lăng Lê Văn Duyệt mới được tháo bỏ. Sử gia triều Nguyễn thời kỳ Lê Văn Duyệt “chịu trừng phạt” (phục pháp), dùng đủ từ ngữ để thóa mạ ông – chắc không khó hiểu, bởi ông thường có những ý kiến khác với ý kiến của triều đình Huế và của đích thân vua Minh Mạng. Đặc biệt, mấy năm liền sau sự biến của Lê Văn Khôi, người con nuôi của Lê Văn Duyệt đã cố thủ thành Phiên An chống lại các đạo quân của triều đình, cùng với việc Lê Văn Khôi không bị chết trận hay bị bắt, mà bị chết bệnh, càng làm cho nỗi oán hờn của triều đình nhân lên nhiều lần. Đến khi danh dự được phục hồi, sử gia Quốc sử quán chọn thái độ càng ít nói đến Lê Văn Duyệt càng tốt.
Nam bộ là mảnh đất mới, thời tiết mới, phong tục bản địa mới và con người mới. Dấu ấn thời khai hoang, lập ấp chưa phai mờ ngay vào những năm đầu của triều Nguyễn. Đánh giá sự kiện và con người vùng đất này, vào thời điểm đầu thế kỷ XIX, chắc chắn không thể trọn vẹn nếu chỉ dừng ở chỗ đứng của những tiêu chuẩn đã tồn tại hàng nghìn năm ở nhiều nơi khác. Vả lại, miền đất mới là nơi “đụng độ” của tính tự phát, giữa đất trời phóng khoáng với nền hành chính đã vào quy củ, gồm đủ tôn ti thượng hạ và bao nhiêu điều cấm kỵ mà ai đó thiếu thuộc lòng, rất dễ “phạm húy”; thời buổi nhiễu nhương vừa mới chấm dứt về cơ bản – thời buổi từng kéo dài khi họ Mạc lật đổ nhà Lê, chiếm Hà Nội, sinh ra chuyện Nam – Bắc triều – rồi Trịnh – Nguyễn phân tranh, từ lúc Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận Hóa, rồi khởi nghĩa Tây Sơn… và chủ nghĩa thực dân phương Tây bắt đầu dòm ngó miền Viễn Đông, trong đó có Việt Nam. Người viết sử có thể phân chia diễn biến của quá khứ thành nhiều chương, hồi, theo một chủ điểm yêu ghét nào đó, có khi còn được gọi là chính thống; nhưng bản thân lịch sử thì nó triển khai đan xen với vô số mâu thuẫn và cách xử lý mâu thuẫn, không từ trong một kịch bản có sẵn nào cả.
![]() |
Các đại biểu tham dự tọa đàm “Nhân vật Lê Văn Duyệt” viếng lăng Ông (tháng 7 – 2000). |
Lê Văn Duyệt có công, bằng chứng là nhân gian ngưỡng mộ và kính trọng ông. Trên tình trạng chung như thế, ông không thể không có thiếu sót – thiếu sót của một vị tướng lĩnh, một đại công thần nhiều cá tính, nhưng không phải là một tri thức, một người luôn hành động theo trực giác hơn là so sánh với những kinh nghiệm đó đây, nhất là vào thời đại của ông. Nhân sinh quan chắc chắn là thoáng, song thế giới quan bó hẹp, lại nắm trọn quyền ngoài cõi. Có thể chúng ta chưa đi sâu để hiểu mối mâu thuẫn phát sinh giữa vua Minh Mạng và Lê Văn Duyệt, nói cách khác, phát sinh từ quan điểm truyền ngôi của Gia Long, khi Lê Văn Duyệt được “Tiên đế” dặn dò theo phò Tân vương. Nếu dừng lại ở chỗ Lê Văn Duyệt muốn con của dòng đích, tức dòng của hoàng tử Cảnh lên ngôi – vì ông và hoàng tử Cảnh có mối giao tình trong buổi trăm bề gian nan – thì lý do đó nếu có cũng chưa phải là lý do chính. Gia Long chọn hoàng tử Đảm kế vị - lên ngôi, lấy niên hiệu Minh Mạng, không giống người cháu của mình, con của hoàng tử Cảnh. Hoàng tử Cảnh được Bá Đa Lộc rửa tội. Đó là cách nhìn vận nước của Gia Long khác Lê Văn Duyệt. Chính sách của Minh Mạng đối với đạo Thiên Chúa là sai lầm, nhất là đối với tín đồ người Việt. Nhưng chính sách ấy không phải không có cơ sở lịch sử. Về mặt này, trong khi chúng ta tán thành thái độ của Lê Văn Duyệt là làm dịu hay tránh kỳ thị người theo đạo Thiên Chúa, thì đồng thời chúng ta cũng lưu ý mặt tế nhị của vấn đề. Lịch sử không phải một lần nhắc nhở, từ cố Marchand ở thành Phiên An của Lê Văn Khôi đến cố Lefèbre ngồi trên quân hạm tiến đánh Sài Gòn năm 1859. Đánh giá công tội của ông, chúng ta không theo lối tuyệt đối hóa. Thảo phạt các cuộc nổi dậy của đồng bào dân tộc ít người ở phía Bắc hay Đá Vách (Quảng Ngãi), phận làm tướng chắc không ai làm khác Lê Văn Duyệt. Bởi bấy giờ, các quan và cả nền văn hóa chưa có khái niệm “khởi nghĩa”, nhất là sự an toàn, sự ổn định để giữ nước luôn là nhu cầu số một của mọi chế độ cai trị.
Cuộc tọa đàm đầu tiên về nhân vật Lê Văn Duyệt theo phương châm: Công bằng trong đánh giá, tuy chỉ mới “xới” các vấn đề, song tọa đàm ít ra cũng đặt được cơ sở cho phương hướng tìm tòi tiếp theo. Cuộc tọa đàm thành công là ở chỗ đó…
(Khi bài này lên khuôn, chúng tôi đã nhận được ý kiến của các đồng nghiệp ở địa phương: Tiền Giang, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu… cho biết hiện nay các thành phố, thị xã trong tỉnh đều có đường mang tên Lê Văn Duyệt từ năm 1986! Riêng tỉnh Bến Tre đang chuẩn bị để dựng tượng đồng Phan Thanh Giản).
Nguồn: Xưa & Nay, số 304, 3/2008, tr 3