Lê Nhân Quý và thời đại của công
Nguồn tài liệu từ sử sách có chép việc Lê Nhân Quý tham gia dẹp loạn Nghi Dân năm 1459, tôn Tư Thành lên ngôi năm 1460 tức vua Lê Thánh Tông. Các sách Toàn thư, Cương mụcchép danh sách những người có công xướng nghĩa, tôn phù nhà vua lên ngôi, trong đó có Lê Nhân Quý (1). Sách Đại Việt thông sửcủa Lê Quý Đôn cũng chép việc này và ghi rõ chức tước của ông: “Tổng tri ngự tiền trung quân, Quan nội hầu Lê Nhân Quý” (2).
Bổ sung cho sử sách còn có tộc phả và sắc phong (3). Tộc phả chép Lê Nhân Quý từng làm giám sinh Quốc tử giám, đỗ khoa Hoành từ, tham gia Hàn lâm viện kiêm Đông các đại học sĩ. Ông được bổ làm Tri phủ Thụy Anh (Thái Bình), Tri phủ Thiệu Thiên (Thanh Hoá). Sau ông từng làm Thừa chính sứ xứ Sơn Tây. Theo nguồn tộc phả, ông đã trực tiếp tham gia công cuộc bình Chiêm buổi đầu đời Lê Thánh Tông vào năm 1470 – 1471. Ngoài ra cũng qua nguồn tộc phả kết hợp với điều tra thực địa ta còn biết ông tiến hành đắp con đê ngăn nước mặn Hoàng Các dài gần 1km, từ phía đông Tháp Sơn đến cồn Mã Nghè, biến vùng bãi hoang ngập mặn ở quê hương thành hàng ngàn mẫu ruộng cày cấy.
Điều đáng tiếc là các nguồn tài liệu trên, trừ việc dẹp loạn Nghi Dân, bình Chiêm Thành, còn lại đều không ghi chép thời gian cụ thể. Về năm sinh, năm mất của Lê Nhân Quý cũng vậy. Tộc phả chỉ chép ông mất ngày 9 tháng 11 mà không chép năm. Tộc phả có chép việc Lê Nhân Quý tham gia khoa Hoành từ vào thời Nhân Tông, bổ làm Tri phủ Thụy Anh, Thiệu Thiên. Tra cứu các sách Toàn thư, Cương mục, Lịch triều hiến chương loại chíđể xác định thời gian ông đỗ đạt và bước vào quan trường, chúng tôi không thấy khoa Hoành từ vào thời Nhân Tông, mà chỉ có một khoa Hoành từ vào năm Thuận Thiên thứ 4 thời Thái Tổ tức năm 1431. Thời Nhân Tông có 3 khoa thi Hội, thi Đình vào các năm Thái Hoà thứ 11 (1453) và Diên Ninh thứ 5 (1458). Cũng theo nguồn tộc phả, năm Cảnh Thống thứ 2 thời Hiến Tông (1499), ông làm Thừa chính sứ Sơn Tây rồi sau đó “quy dụng gia ân”.
Từ tình hình tư liệu như trên, bằng suy luận, chúng tôi nghĩ rằng Lê Nhân Quý không thể tham gia khoa Hoành từ năm 1431 để sau đó được bổ dụng Tri phủ. Vì như vậy ông sẽ có 70 năm tham chính, điều này không thể có trong thực tế. Chúng tôi tạm lấy mốc thời gian năm 1448 – năm có khoa thị Hội, thi Đình đầu tiên thời Nhân Tông và ông có trên 50 năm cống hiến dưới thời Lê sơ qua các triều Nhân Tông, Thánh Tông và đầu đời Hiến Tông.
Sử sách đã chứng minh đây là thời kỳ đẹp của vương triều Lê sơ trong lịch sử trung đại nước ta với các vị vua nổi tiếng, đặc biệt cực thịnh vào thời Lê Thánh Tông. Đây cũng là thời kỳ đất nước hồi phục, vươn mình mạnh mẽ sau 10 năm kháng chiến lật đổ ách thống trị tàn bạo của giặc Minh xâm lược.
Sau khi khởi nghĩa tiến hành chiến tranh giải phóng đất nước thắng lợi, Bình Định Vương Lê Lợi lên ngôi lập nên vương triều Lê, mở ra một thời kỳ mới. Hàng loạt vấn đề đặt ra cho thời kỳ này, buộc Nhà nước quân chủ Lê sơ bao gồm vua và đội ngũ quan lại phải giải quyết. Đó là xây dựng một bộ máy nhà nước vững mạnh đủ sức bảo vệ độc lập, giữ vững biên cương, quản lý cư dân và đất đai có hiệu lực; khôi phục nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp đã bị tàn phá kiệt quệ; phục hưng văn hoá của dân tộc đã bị thống trị nhà Minh tìm mọi cách xoá bỏ với âm mưu đồng hoá. Những vấn đề lớn, cơ bản này đã được Nhà nước Lê sơ thực hiện thành công.
Như đã trình bày, Lê Nhân Quý thuộc thế hệ sau kháng chiến chống giặc Minh giải phóng đất nước. Ông sinh trưởng, học hành dưới thời các vua Thái Tổ, Thái Tông. Cho đến những năm Thái Hoà niên hiệu của Lê Nhân Tông, ông mới tham gia chính sự. Về thời gian này, sử sách có chép nhiều chuyện đố kỵ ghen ghét, tranh giành quyền lực dẫn đến những sứt mẻ, oan khiên nghiêm trọng. Nhưng quan trọng hơn, nổi bật hơn là những thành tựu mà các vị vua đầu vương triều đã xây dựng được cho đất nước Đại Việt tưởng như đã bị lụi tàn. Có thể kể đến phép quân điền được khởi đầu từ năm Thuận Thiên thứ 2 (1429) lấy ruộng đất công, ruộng của thế gia tuyệt tự, của ngụy quan cấp cho “từ đại thần xuống đến hạng người già yếu, mồ côi, goá bụa đều phân ra từng hạng mà chia xuống (4). Việc làm này đã được hoàn thiện, mở rộng hơn vào thời Hồng Đức. Cùng với việc chia ruộng là khẩn hoang, phục hoá, chiêu hồi dân xiêu tán, xây dựng làng mạc, ổn định đời sống cho dân. Về giáo dục, khoa cử được mở mang, tuyển chọn người hiền tài, bổ sung, xây dựng bộ máy nhà nước quân chủ vững mạnh thay thế đội ngũ công thần trưởng thành trong chinh chiến đã già yếu. Luật Hồng Đức, một bộ luật hoàn chỉnh với nhiều yếu tố tiến bộ được ra đời vào thời Lê Thánh Tông. Những thành tựu to lớn trên đã khôi phục đất nước, tạo nên một quốc gia Đại Việt hùng cường.
Trong vòng 50 năm tham dự bộ máy nhà nước Lê sơ, từng làm quan trong, quan ngoài, quan văn, quan võ, công nghiệp của Lê Nhân Quý, cũng là tác động của ông đối với quá trình vận động, phát triển của thời đại được phản ánh rõ trong ba sự việc tiêu biểu. Đó là tham gia dẹp loạn Nghi Dân, đánh dẹp Chiêm Thành và đắp đê ngăn mặn, khẩn hoang ở Tĩnh Gia – Thanh Hoá. Về dẹp loạn, Nghi Dân là con đầu của Thái Tông được phong Lạng Sơn vương, mẹ là Dương Thị Bi có tội với Thái Tông, do đó bị truất ngôi. Bang Cơ là con thứ tư, mẹ là Nguyễn Thị Anh, được lập làm Hoàng thái tử vào năm Đại Bảo thứ 2 (1441). Sang năm sau – 1442, Thái Tông bị mất trong dịp đi tuần du, Bang Cơ lên ngôi tức vua Lê Nhân Tông. Từ đó Nghi Dân sinh lòng ghen ghét, tị hiềm, ngầm nuôi chí đoạt ngôi. Đến năm Diên Ninh thứ 6 (1459), Nghi Dân tập hợp tay chân chia làm ba đường, ban đêm bắc thang đột nhập cung cấm giất vua Nhân Tông và Tuyên Từ hoàng thái hậu Nguyễn Thị Anh. Việc làm của Nghi Dân đã gây nên đổ vỡ lớn. Trước hành động thoán nghịch của Nghi Dân, một số quan đại thần trong đó có Lê Nhân Quý do Nguyễn Xí, Đinh Liệt đứng đầu tập hợp, bàn bạc xướng nghĩa: “… bọn chúng ta là bề tôi huân cựu, mắt từng thấy việc ấy (việc Nghi Dân giết vua cướp ngôi), đáng phải chết theo với xã tắc mà lại ở dưới kẻ bội nghịch, đứng ở trong triều kẻ cướp ngôi giết vua, là người tội nhân của muôn đời, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở suối vàng nữa”. Sau khi bàn bạc, họ giết bọn phản nghịch, truất Nghi Dân làm Lệ Đức hầu, sau bắt phải tự tử, rước Tư Thành 18 tuổi, con bà Ngô Thị Ngọc Giao lên ngôi tức Lê Thánh Tông. Sau khi lên ngôi, vua Lê Thánh Tông khen thưởng những người có công. Về việc này, Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sửghi rõ: “Các vị đại thần có công lao cũ là các vị khai phủ nghi đồng tam ty nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chương quân quốc, trọng sự Á quận hầu, Thái bảo Nguyễn Xi, Đinh Liệt; nhập nội kiểm hiệu thái uý binh chương quân quốc trọng sự Á thượng hầu Lê Lăng, xa kỵ tổng tri Lê Niệm, Tổng trị ngự tiền Hậu quân Á hầu Lê Nhân Thuận, Tổng tri ngự tiền trung quân quan Nội hầu Lê Nhân Quý, Tổng tri ngự tiền thiện trạo các quân, quan Phục hầu Trình Văn Sái, thiêm tri Bắc đạo quân dân bạ tịch Trịnh Đạc, Điện tiền đô chỉ huy sứ Nguyễn Đức Trung, Thiết đội hữu quân hoả đội trưởng Nguyễn Yên, Nhập nội Đại hành khiển Lê Vĩnh Trường, Điện tiền đô chỉ huy sứ Lê Yên, Lê Giải cùng bí mật bàn bạc…” (5).
Như vậy, Lê Nhân Quý tham gia dẹp loạn Nghi Dân với cương vị võ quan chỉ huy một trong sáu quân ngự tiền gồm: ngự tiền võ sĩ, ngự tiền trung quân, tả, hữu, tiền, hậu dực thánh quân. Với vai trò cầm quân ngự tiền có nhiệm vụ bảo vệ nhà vua và triều đình, khi gặp biến Lê Nhân Quý đã tích cực tham gia bàn bạc trừ kẻ thoán nghịch, tỏ lòng trung thành với vương triều Lê sơ. Điều quan trọng hơn, là ông đã cùng các đồng chí của mình chọn lập Tư Thành lên ngôi vua tức Lê Thánh Tông. Đây là một sự lựa chọn đúng đắn, sáng suốt, trao việc nước vào tay một đấng minh quân, làm vẻ vang cho dân tộc.
Sự nghiệp lớn thứ hai của Lê Nhân Quý được tộc phả chép lại. Ông đã từng tham gia đánh dẹp Chiêm Thành vào năm Hồng Đức thứ nhất, thứ hai (1470 – 1471). Cuộc hành binh này bắt đầu từ tháng 10 mùa đông năm Canh Dần (1470) đến tháng 3 năm Tân Mão (1471), hạ được thành Chà Bàn, bắt sống được chúa Chiêm Trà Toàn, tháng 5 mừng thắng trận ở kinh đô. Nguyên nhân dẫn đến cuộc hành binh này là do vua Chiêm Thành Trà Toàn đích thân đem hơn 10 vạn quân thuỷ bộ, voi, ngựa xâm lược biên giới phía Nam , đánh úp Hoá Châu vào tháng 8 năm Canh Dần (1470). Biên giới phía Namcủa Đại Việt vào thời Trần đến Hoá Châu (Thừa Thiên), sang thời Hồ vào năm 1402 đến Tư, Nghĩa - Quảng Nam , Quảng Ngãi ngày nay. Để đáp trả lại sự tiến công xâm lược của chúa Chiêm, vua Lê Thánh Tông đã tiến hành chinh phạt lấy lại đất Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, cho lệ thuộc vào Quảng Nam thừa tuyên.
Công cuộc bình Chiêm năm 1470 – 1471 là võ công hiển hách dưới triều Lê Thánh Tông. Từ đây biên giới phía Nam được xác định vững chắc. Trên cơ sở đó vua Lê Thánh Tông đã khống chế phần còn lại của Chiêm Thành, chia làm 3 nước, phong vương cho người đứng đầu và áp dụng chính sách ràng buộc lỏng lẻo. Trong công cuộc bình Chiêm thời Lê Thái Tông có phần đóng góp của Lê Nhân Quý. Ông đã góp phần ổn định biên cương, mở mang bờ cõi là một trong những nhiệm vụ lớn lao mà thời đại đã đặt ra cho thế hệ Lê Nhân Quý có nghĩa vụ và trách nhiệm phải hoàn thành.
Một vấn đề khác cực kỳ quan trọng được đặt ra với thời Lê sơ đó là khôi phục sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống cho nhân dân sau hơn 20 năm dưới ách đô hộ tàn bạo của giặc Minh. Sử sách đã chép nhiều về chủ trương khắc phục tình trạng hoang hoá bằng cách khám xét ruộng đất, lấy ruộng công, ruộng của bọn ngụy quan bị tịch thu, của thế gia tuyệt tự chia cho dân. Liền sau khi lên ngôi, vào năm Kỷ Dậu (1429), Lê Thái Tổ đã “chỉ huy cho các quan phủ, châu, huyện, xã rằng xã nào có ruộng nhiều, nhân dân ít mà bỏ hoang, thì cho phép quan bản quản cho người khác không có ruộng đất cày cấy, người điền chủ bản xã không được chiếm lấy mà bỏ hoang” (6). Công cuộc chấn hưng nông nghiệp được đặc biệt đẩy mạnh vào thời Hồng Đức. Đã nhiều lần nhà vua ra sắc lệnh về đê điều, khuyến khích nông nghiệp. Năm Hồng Đức thứ 8 (1477), vua Lê Thánh Tông hạ sắc lệnh cho các quan thừa chính, hiến sát và phủ, huyện: “Nếu người nào khinh thường việc làm ruộng, như hạn hán mà không cầu đảo, nước lụt mà không khai thông, thấy việc lợi cho nhà nông mà không chấn hưng, thấy việc có hại cho việc nông mà không trừ khử ngay (…) những người đứng đầu phải luận vào tội lưu (7). Năm Hồng Đức thứ 16 (1485), nhà vua lại hạ lệnh cho các viên phủ, huyện: “Phàm chỗ ven núi, ven biển còn có ruộng bỏ hoang chưa khai khẩn hết, thì các viên phủ, huyện đều phải đi khám thực, đôn đốc nhân dân khai khẩn cày trồng” (8).
Thực hiện chủ trương chính sách của Nhà nước Lê sơ, Lê Nhân Quý đắp đê ngăn mặn, khai khẩn ven biển ở quê hương. Theo tộc phả, vào cuối đời Thánh Tông - đầu đời Hiến Tông, ông đắp con đê Hoàng Các từ Tháp Sơn đến cồn Mả Nghè, thôn Vinh Quang dài gần 1km, biến vùng bãi hoang ngập mặn thành hàng ngàn mẫu ruộng chia cho các làng canh tác hưởng lợi. Từ việc làm này, dân tứ xứ quy về ngày một đông, thành các xã thôn Vinh Quang, Cao Lư, Trung Dịch, Ngọc Lâm ở xã Mai Lâm ven biển phía đông nam huyện Tĩnh Gia – Thanh Hoá ngày nay.
Tóm lại, tuy không thuộc diện khai quốc công thần, nhưng hẳn rằng vào những năm dưới ách thống trị của giặc Minh cùng với những năm tiến hành chiến tranh giải phóng đất nước dưới ngọn cờ của Bình Định vương Lê Lợi, đã để lại trong Lê Nhân Quý dư âm của một thời chiến đấu, hy sinh, chịu đựng của thế hệ đi trước có tác dụng nêu gương, cổ vũ cho hậu thế như ông hết lòng vì dân vì nước. Sinh ra và trưởng thành trong một xã hội thăng bình “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông, con bế con dắt con bồng con mang”, Lê Nhân Quý đã kế thừa truyền thống của cha anh, được tiếp sức từ nguồn sống dồi dào của một xã hội thăng bình hưng khởi. Bắt đầu tham gia chính trường vào thời Lê Nhân Tông với tâm trạng hồ hởi, Lê Nhân Quý hăm hở thực hiện lý tưởng “trung quân ái quốc” được rèn dạy nơi cửa Khổng sân Trình như nhiều nho sĩ chân chính thời bấy giờ. Bằng những việc làm được sử sách, tộc phả ghi chép. Lê Nhân Quý phản ánh hình mẫu đích thực một quan lại trung cần liêm chính của thời đại. Với tư cách và công lao đóng góp của mình, Lê Nhân Quý từng được lưu danh trong sử sách, ông xứng đáng được hậu thế ngưỡng mộ, tôn vinh
______________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch Nxb Văn hoá Thông tin, H, 2004 tập II, tr. 243; Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch Nxb Giáo dục, H, 1998, tập I, tr. 988.
2. Lê Quý Đôn toàn tập, tập III - Đại Việt thông sử, bản dịch Nxb KHXH, H, 1978, tr. 228.
3. Tài liệu do ông Lê Ngọc Trà, hậu duệ Lê Nhân Quý ở Mai Lâm, Tĩnh Gia cung cấp.
4. Cương mục, tập I, Sđd, tr. 99.
5. Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử, Sđd, tr. 228.
6. Cương mục, Sđd, tập I, tr. 1130.
7. Như trên, tr. 1136 – 1137.
8. Như trên, tr. 1170.








