Làng sinh thái ven đô Hà Nội, một trong những yếu tố cho sự cân bằng sinh thái đô thị Hà Nội
1. Khái niệm làng sinh thái ven đô
Thuật ngữ về "làng sinh thái" khá là mới và được biết đến rộng rãi xuất phát từ Tây Âu sau đó lan đến một số nước thế giới thứ ba. Nói chung có thể hiểu làng sinh thái là một điểm dân cư nhỏ gồm vài trăm người, là nơi có thể đáp ứng được những nhu cầu về vật chất, kinh tế, xã hội, cơ hội, văn hoá và tâm linh cho con người mà không làm tổn hại đến môi trường tự nhiên. Mặc dù vậy Hildur Jackson, 1996 cho rằng không có một làng sinh thái nào hoàn chỉnh theo đúng nghĩa của nó. GEN (Global Ecovillage Network - hệ thống làng sinh thái toàn cầu) đưa ra 2 định nghĩa để so sánh về làng sinh thái: Một là, Làng sinh thái có quy mô, tính chất của một điểm dân cư mà trong đó sự liên kết các hoạt động của con người làm ảnh hưởng ít nhất tới môi trường, khuyến khích sự phát triển lành mạnh và có thể phát triển hoàn chỉnh trong tương lai (Robert Gilman); Hai là, Làng sinh thái là một đơn vị dân cư bền vững ở nông thôn hay đô thị được tạo lập tôn trọng và phát triển hệ thống khép kín của 4 yếu tố: Đất, Lửa, Nước và không khí trong tự nhiên và con người. Chúng bao gồm tất cả các khía cạnh của cuộc sống con người: Cấu trúc vật thể (trái đất); hạ tầng kỹ thuật (nước); Cấu trúc xã hội (lửa); và Văn hoá (không khí). Định nghĩa này được công nhận và áp dụng cho 15 dự án khi thành lập Tổ chức quốc gia về làng sinh thái năm 1991 ở Đan Mạch.
Thuật ngữ "làng sinh thái" được hiểu theo nhiều cách khác nhau theo từng điều kiện của từng khu vực khác nhau. Tuy nhiên, ta có thể đưa ra khái niệm một cách chung nhất là: Làng sinh thái trước hết là một đơn vị dân cư xã hội hoàn chỉnh và phải bền vững trên cơ sở tổng hoà giữa các quan hệ nội tại bên trong và những yếu tố ảnh hưởng bên ngoài liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa-xã hội, môi trường và cơ cấu không gian trên nguyên tắc tôn trọng tính bản địa và phát triển hài hoà với thiên nhiên.
Làng sinh thái ven đô trước hết là một làng sinh thái và nằm ở vị trí ven đô. Do vậy nó mang tính chất của khu vực ven đô: vừa đô thị vừa nông thôn.
2. Mục tiêu và quan điểm phát triển
2.1. Mục tiêu phát triển
- Là một đơn vị dân cư hoàn chỉnh phát triển cân bằng sinh thái cả trước và sau đô thị hoá; có đặc trưng riêng về mặt sinh thái.
- Là nơi tạo lập được một không gian xanh, vườn hoa cây cảnh đặc sắc cho bản thân nó và cho đô thị trung tâm;
- Là nơi mang đậm nét bản sắc văn hoá của từng vùng, miền nói chung và của Hà Nội nói riêng; có khả năng đáp ứng được một phần nhu cầu vui chơi giải trí du lịch mang ý nghĩa sinh thái;
- Là nơi có thể cung cấp một phần nguồn lương thực, thực phẩm sạch và những nhu cầu dịch vụ xã hội thiết yếu khác cho đô thị trung tâm; và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc trưng của làng nghề truyền thống.
- Là đơn vị hạt nhân sinh thái phát triển thành các trung tâm dịch vụ xã hội sinh thái cho các đơn vị dân cư khu ở đô thị mới của thành phố Hà Nội (bao gồm làng sinh thái phát triển và khu đô thị mới);
- Là nơi có cảnh quan đáp ứng được nhu cầu dịch vụ vui chơi giải trí mang ý nghĩa cân bằng sinh thái tầm vĩ mô của đô thị trung tâm.
2.2. Quan điểm phát triển
Tổ chức không gian làng sinh thái ven đô theo hướng phù hợp với hệ sinh thái bản địa, làm nổi bật nó và không làm phá vỡ các yếu tố cơ bản của hệ sinh thái.
3. Phát triển làng sinh thái ven đô thành phố Hà Nội
Có 5 yếu tố xác định hình thành làng sinh thái đó là: Môi trường tự nhiên; môi trường xây dựng; yếu tố cộng đồng; kinh tế - sản xuất và khoa học công nghệ. Làng sinh thái ven đô Hà Nội được xác định là đơn vị hạt nhân sinh thái mà từ đó các làng sinh thái ven đô và ngoại ô có thể chủ động tiếp cận với đô thị Hà Nội mở rộng trong quá trình ĐTH; cho phát triển chuyển tiếp của thành phố giữa khu vực nội đô (các quận nội thành) và các khu vực đô thị mới theo QHC, nó chính là điểm cân bằng sinh thái cho không gian toàn thành phố. Ngoài ra, các điểm làng sinh thái ngoại đô rải rác ở khu vực xa hơn cũng có thể kết hợp với hệ thống các làng sinh thái ven đô thành một hệ sinh thái mới cân bằng cho phát triển thủ đô Hà Nội.
Ngoài ra, trong cơ cấu quy hoạch, làng xã thường được phân cấp theo cơ cấu tầng bậc và là bậc cuối cùng trong hệ thống này. Tuy nhiên, do quá trình đô thị hoá của đô thị xuất hiện khái niệm về thị tứ, làng xã là khu vực xen giữa vùng đô thị và nông thông của làng xã. Làng sinh thái ven đô cũng có những đặc điểm tương đồng với khái niệm này. Tuy nhiên, với đặc điểm khác biệt là làng sinh thái được xây dựng trên cơ sở đánh giá sinh thái trước tiên, nên vị trí của làng sinh thái cũng không tuân theo một quy luật nào mà chủ yếu dựa vào điều kiện và khả năng khai thác yếu tố tự nhiên môi trường cảnh quan. Làng sinh thái ven đô do vậy khó có thể xác định theo quan niệm tầng bậc, nó có thể có liên hệ trực tiếp với đô thị hay điểm dân cư đô thị nhưng cũng có thể chỉ liên hệ với các khu vực phát triển lân cận. Do vậy, làng sinh thái ven đô vừa có mối quan hệ mật thiết và trực tiếp với thị tứ làng xã như những điểm dân cư nông thôn của làng xã ở khu vực ven đô vừa có quan hệ với những khu vực đô thị lân cânh như những điểm dân cư đô thị trong tổng thể không gian đô thị. Ta có thể hình dung làng sinh thái ven đô là bông hoa mà gốc rễ của nó chính là các điểm thị tứ làng xã hay là điểm dân cư đô thị mới có sắc thái riêng đa dạng.
Từ mối quan hệ này của làng sinh thái ven đô ta có thể xác định được quy mô cũng như cấu trúc tổ chức không gian trong mô hình phát triển.
Làng sinh thái ven đô với vị trí của nó tại ven đô chính là các làng xóm hiện trạng có thể phát triển thành sinh thái và hoà hợp với môi trường. Quan điểm phát triển làng sinh thái ven đô là coi làng sinh thái ven đô như một hạt nhân sinh thái với việc chủ động đô thị hoá đón trước sự bành trướng của đô thị trung tâm có thể mở ra khả năng thực tế để giải toả những mâu thuẫn về sử dụng đất đai ven đô và ngoại thành Hà Nội - ồ ạt, thiếu định hướng cụ thể cho cả người dân đô thị và nông thôn ngoại thành - nhằm thực hiện phương châm "li nông bất li hương" trong phát triển đô thị Hà Nội. Liệu đây cũng có thể xem là một trong những hướng mở cho phát triển thủ đô Hà Nội, đặc biệt là trong bối cảnh mở rộng địa giới hành chính hiện nay? Vấn đề này còn có nhiều bàn luận và cần thiết phải có những nghiên cứu sâu sắc hơn nữa. Trong khuôn khổ bài viết tác giả chỉ mới hy vọng đưa vấn đề và để cho chúng ta cùng bàn luận nhằm hướng tới một Hà Nội phát triển trường tồn xứng đáng với lịch sử 1000 năm văn hiến.