Lăng Bà Lồi phế tích thời Champa
Khu Lăng Bà tại thôn 6 xã Cẩm Thanh cách trung tâm phố Hội An chừng 3 km về phía Đông, cách cửa Đại Chiêm Hải Khẩu khoảng 2 km về phía Tây Bắc. Đây là một vùng đồng bằng với những gò cát nhỏ được bao bọc bởi các nhánh sông Cổ Cò ( còn gọi là sông Bàu Đà) ở phía Bắc và sông Đình ở phía Nam. Trên gò cát cao to nhất có một ngôi lăng gọi là Lăng Bà hay Lăng Bà Lồi được cư dân địa phương xây dựng để thờ Bà Lồi.
Qua trao đổi với các vị cao tuổi tại địa phương, chúng tôi có được một câu chuyện khá ly kỳ, hấp dẫn về Bà Lồi như sau. Vào thời kỳ xa xưa, nơi đây là vùng đất hoang vu, rậm rạp dân chúng chẳng ai dám qua lại. Giữa khu vực này có một đồi đất cao, cây cỏ mọc um tùm nên dân ở đây hay gọi là “lùm”. Bỗng một thời gian, người ta phát hiện một pho tượng đá có hình dáng phụ nữ “ từ dưới đất trồi lên” (2), họ cho đây là tượng của Thiên Y A Na Diễn Phi Chúa Ngọc nên huy động nhân dân trong vùng góp công, góp của xây dựng lại ngôi lăng để thờ tượng Thiên Y thánh mẫu, ngôi lăng đó có tên g ọi là Lăng Bà hay Lăng Bà Lồi. Từ đó, vào tháng Giêng Âm Lịch hàng năm, dân chúng đều tổ chức cúng tế cầu an. Tuy đã trải qua bom đạn của nhiều trận chiến, nhiều lần được tu bổ nhưng hiện nay Lăng Bà vẫn tồn tại ngay vị trí xây dựng lúc ban đầu.
Vào năm 1989, để chuẩn bị cho việc lập hồ sơ Đô thị cổ Hội An, Ban Quản lý Di tích và Dịch vụ Du lịch Hội An phối hợp với nhiều nhà khoa học tiến hành khảo sát khu vực Lăng Bà đã phát hiện trong lăng có thờ một pho tượng làm bằng vữa vôi rất lạ (3), nên đoàn làm việc với địa phương và những người cao tuổi được xem kỹ pho tượng lạ này. Sau khi làm sạch lớp vôi vữa và xi măng bên ngoài để lộ ra bức tượng nam thần Tài lộc Kupera của Chăm theo phong cách Trà Kiệu, có niên đại vào khoảng nửa sau thế kỷ thứ X. Đây là pho tượng đứng, được tạo từ đá sa thạch màu xám, chiều cao tính cả bệ khoảng 120 cm. Pho tượng bị sứt vỡ nhiều nơi, có lẽ là do bom đạm của chiến tranh làm tổn hại. Hiện nay, tượng được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử - Văn hoá Hội An.
Sau khi phát hiện tượng thần Tài Lộc, đoàn đã mở rộng khảo sát ra các khu vực lân cận đã tìm thấy móng kiến trúc nằm phía đông đối diện Lăng Bà, móng tháp này đã bị hư hại nặng nề và bị vùi sâu dưới cát. Sau việc thăm dò, thám sát để lập hồ sơ khoa học thì khu phế tích được lấp lại để bảo quản.
Đến tháng 9 năm 2002, khu vực Đông Lăng Bà được chọn làm nơi xây dựng khu thiết chế văn hoá của xã Cẩm Thanh. Trong quá trình san ủi mặt bằng, đã làm xuất lộ thêm nhiều gạch, mảnh ngói mũi tên… Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An đã cử cán bộ chuyên môn đến hiện trường khảo sát và tiến hành đào thám sát chữa cháy. Lần theo dấu vết móng gạch, chúng tôi đã mở các hố thám sát, làm lộ rõ phần móng còn lại để xác định độ sâu, rộng và xem thử đây là công trình kiến trúc gì. Kết quả thám sát 2 móng phế tích như sau:
- Phế tích I: Cách Lăng Bà 100m về hướng Đông. Tổng diện tích có xuất lộ dấu vết kiến trúc: 340m 2. Lớp đất mặt có nhiều mảnh gạch, ngói Champa bị vỡ. Cách lớp đất mặt từ 20cm xuất lộ đoạn móng kiến trúc gạch hình chữ L. Cạnh móng A có hướng Đông - Tây, dài 5,7m, rộng 1m, cạnh móng B có hướng Bắc - Nam, dài 7,2m, rộng 1m. Hai cạnh tạo thành góc vuông tại phía Tây. Mặt bằng phế tích hầu hết bị xáo trộn, gạch móng bị vỡ. Riêng tại góc vuông của phế tích còn lại dấu vết móng gạch tương đối nguyên vẹn. Dấu vết móng có ba lớp gạch xếp chồng lên nhau, không có vữa liên kết, dưới lớp gạch cuối cùng là lớp sinh thổ, kích thước mỗi viên gạch: 33cm x 13cm x 7cm. Do phải giữ nguyên trạng dấu vết móng nên chúng tôi chưa thể tìm hiểu được bố cục sắp xếp. Sát vách Đông, Nam hố mở rộng, cách mép Đông cạnh A về phía Đông 5m xuất lộ một đoạn móng gạch nguyên, một lớp, kéo dài 5m, rộng 1m. Trong diện tích thám sát phế tích I còn phát hiện được các chi tiết trang trí kiến trúc bằng gạch nung, nhiều mảnh ngói mũi tên; mảnh sành bản địa; mảnh gốm sứ của các loại chén, bát Trung Hoa thời Đường, Tống… Đặc biệt có một mảnh gốm có dính xỉ thuỷ tinh.
- Phế tích II: cách phế tích I 73m về hướng Tây Bắc, cách Lăng Bà 67m về hướng Đông Bắc. Lớp đất mặt khu phế tích II nhuốm màu đỏ gạch, có nhiều gạch vỡ, sạn lẫn lộn với cát. Phế tích II cách lớp đất mặt 20cm xuất lộ khu chân móng hình chữ nhật CDEF, hướng Đông. Đế chân móng cách lớp đất mặt 30cm. Hai cạnh DE (Đông),CF (Tây)dài 12,6m; hai cạnh CD (Bắc),EF ( Nam)dài 14,7m, diện tích khu phế tích là 185,22m 2( 12,6m x 14,7m). Chúng tôi xác định được ba góc vuông hoàn chỉnh của chân móng, riêng ở góc Tây Bắc, nơi giao nhau của cạnh CD và FC nằm dưới đường nhựa trước khu vực Lăng Bà nên không thể phát lộ được.
Mặt bằng móng đã bị xáo trộn, hầu hết các lớp gạch trên đã bị vỡ vụn, chỉ còn lại lớp sạn và lớp đá dăm làm đế móng. Cát trong lòng khu phế tích là cát trắng, khác hẳn với màu đất vàng đen tại khu vực này. Chúng tôi đã đào hai hố thăm dò rộng 1m 2, sâu 70cm ( đến lớp sinh thổ) bên ngoài khu phế tích, quan sát và nhận thấy đất tự nhiên nơi này có màu đen. Như vậy, đất trắng trong lòng phế tích II được cư dân Champa đem từ nơi khác đến. Hiện vật trong khu vực thám sát chủ yếu là các mảnh gốm Chăm mịn có màu đỏ, vàng; mảnh sành bản địa màu xanh, đỏ, trắng và một ít mảnh sứ Trung Quốc…
Theo các kết quả khảo sát trước đây kết hợp với việc khảo sát chữa cháy năm 2002 và qua bức tượng nam thần Tài Lộc Kubera, chúng ta có thể đưa ra giả thuyết ban đầu về niên đại khu phế tích này là vào khoảng từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XV. Trên đây là một số mô tả, xác định bước đầu về khu phế tích Champa - Lăng Bà tại thôn 6, Cẩm Thanh. Về phần xác định niên đại cụ thể cũng như chức năng của hai phế tích này còn phải chờ các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu.
Hiện nay, khu phế tích đã được lấp lại bằng cát để tạm bảo quản. Trung tâm QLBT Di tích Hội An đã có hồ sơ thiết kế trình xin các cấp thẩm quyền phê duyệt và cấp kinh phí để khai quật làm lộ rõ toàn bộ móng tháp, đồng thời làm mái che bảo vệ để vừa bảo quản được khu phế tích vừa phục vụ cho công tác nghiên cứu, tham quan du lịch.
______________________
(1) Theo sách Đại Nam nhất thống chí, ở phía Đông Hội An có hai cửa thông với biển đó là cửa Đại Chiêm Hải Khẩu và tiểu cửa do thay đổi của dòng nước, tiểu cửa đã bị bồi lấp, chỉ còn cửa Đại Chiêm tồn tại cho đến ngày nay. Vào các thời kỳ trước, tất cả các tàu thuyền của nước ngoài đến buôn bán với phố Hội An đều phải qua cửa Đại Chiêm này.
(2) Thật ra, bức tượng này được thờ trong một công trình tín ngưỡng nào đó của người Chaampa, sau khi bị hư hại, bức tượng bị vùi sâu dưới dất, trải qua mưa gió lâu ngày làm trôi lớp cát bên trên dể lộ ra bức tượng đá chứ không phải bức tượng từ dưới đất trồi lên một cách huyền thoại như người dân đã kể.
(3) Theo lời kể của những người lớn tuổi ở địa phương, khi phát hiện pho tượng vì có dáng giống hình phụ nữ nên người ta cho rằng có thể đây là tượng của bà Thiên Y A Na Chúa Ngọc hoặc tượng Phật Bà Quan Âm. Nhưng do người xưa “làm chưa giống” nên họ đã tự dùng vữa vôi và ximăng tô đắp, sơn phết cho thật giống hình tượng của một vị nữ thần.
Nguồn: Xưa và Nay, số 248, 11/2005, tr 26, 27