Làm gì để vĩnh việt được xa lộ tật nguyền
Tâm lý ganh đua để vượt lên trên người khác trong một kỳ thi tuyển vẫn còn ở từng thí sinh đối với các môn mà trường đại học (do họ chọn để thi vào) chọn để xét tuyển. Tỉ lệ thí sinh trúng tuyển vào đại học vẫn theo quy luật như cũ và do vậy tình trạng luyện thi, dạy thêm, học thêm tràn lan vẫn y nguyên. Hiện nay, nỗi lo lắng của thanh niên tập trung chủ yếu vào việc “thi đỗ vào đại học” và “có việc làm sau khi tốt nghiệp đại học”. Gỡ được hai nỗi lo đó thì không những bản thân họ mà cả xã hội sẽ không còn căng thẳng, các tiêu cực trong thi cử cũng theo đó mà mất dần. Muốn vậy, phải phấn đấu để tiến tới thực hiện được hai khẩu hiệu:
1/ “Ai nấy được học hành”
2/ “Người lớn ai nấy có việc làm”
Khẩu hiệu thứ nhất cần được hiểu là “học hành đúng chỗ” không có những chuyện như ngồi nhầm lớp, nhầm trường, nhầm cách học (ỷ lại vào thầy thay cho phát huy nội lực); khẩu hiệu thứ hai cần được hiểu là “việc làm tương xứng với trình độ nghề nghiệp”.
Muốn thực hiện được khẩu hiệu thứ nhất thì cái gốc phải giải quyết là khơi dậy tiềm năng “tự học” ẩn náu trong mọi con người bình thường. Bác Hồ đã nói: “Về việc học phải lấy tự học làm cốt”, về việc này, ta đã thụt lùi xa so với quá khứ: Hồi kháng chiến chống Pháp, học sinh đầu cấp hai (trung học cơ sở) đã có lòng tự hào về “tự học”, hè đến không ai đi học tư mà tự ôn lấy, còn bây giờ học sinh lớp 12 chẳng có lấy chút tự tin nào vào “tự học” mà chỉ toàn tìm thầy để “học thêm”. Vì vậy bậc đại học của ta hàng chục năm rồi vẫn chưa thoát khỏi cái mũ mà nhân dân chụp cho là “Phổ thông cấp 4” trong khi thế giới đã thừa nhận công thức: Đại học = Tự học. Cho nên “tự học” phỉa là cái nút bấm quan trọng nhất để làm chuyển động mạnh mẽ cỗ xe giáo dục. Các nút khác (chẳng hạn như “thầy” và “cơ sở vật chất”), dù rất quan trọng, cũng phải đứng sau nút này, hay nói đúng hơn, có tác dụng hỗ trợ đắc lực nút này. Nếu ý thức và khả năng tự học của học trò không tốt thì dù thầy có bằng cấp cao, cơ sở vật chất có hiện đại, đắt tiền, cũng khó đạt hiệu quả mong muốn. Khi khả năng tự học được khơi dậy thì việc tổ chức “học từ xa” có nhiều thuận lợi để phát triển về số lượng mà vẫn đảm bảo chất lượng. Trở ngại lớn nhất của việc phát huy khả năng tự học là nhận thức sai lệch rằng phải là người thông minh đặc biệt thì mới tự học được .
“Tự học” ngày nay phải gắn liền với tính “sáng tạo”. Vì thế, UNESCO đã điều chỉnh “học để làm người” (learning to be) thành “học để sáng tạo” (learning to create). Ngoài việc chú ý đến sáng tạo của các nhà bác học, người ta còn quan tâm nhiều đến sáng tạo có tính chất quần chúng ở những người lao động bình thường, ở học sinh, sinh viên. Đã có sáng tạo học (creatology) là ngành học giúp cho người không có năng khiếu bẩm sinh có thể học trở nên sáng tạo. Sáng tạo bắt đầu từ việc có một nhu cầu chưa được thoả mãn và đương sự tìm cách thoả mãn nhu cầu đó. Từ khi bắt đầu “tìm cách” cho đến khi “thoả mãn được”, đương sự thường phải có những phẩm chất toàn diện cộng thêm những yêu cầu mới về sáng tạo.
Để sinh viên ra trường có việc làm thì ngoài việc xã hội tạo ra được nhiều việc làm (tình hình đã được cải thiện do đầu tư nước ngoài đổ vào nhiều) cần có nhiều đổi thay trong tổ chức và nội dung giáo dục đào tạo. Các trường phổ thông phải tiến hành giáo dục nội khoá song song với giáo dục ngoại khoá, gắn nhà trường với đời sống, kiêm kuôn công tác “hướng nghiệp” theo cách sau đây: Mỗi trường dạy nghề (đại học cũng là dạy nghề cao cấp, cao đẳng là dạy nghề cao cấp thiết thực, ngắn hạn) chọn lấy một mạng lưới trường phổ thông trung học thích hợp để lập các tổ ngoại khoá. Ví dụ, các trường kinh tế có thể vào đó mở các tổ ngoại khoá liên quan đến những vấn đề kinh tế mới mẻ (như chứng khoán, thương mại điện tử,...). Có như vậy trường phổ thông mới mở rộng tầm nhìn đến đủ các mặt của xã hội đương thời (mà riêng các trường sư phạm không làm nổi). Mỗi tổ ngoại khoá vừa giúp học sinh tiếp xúc với xã hội đang trên đà đổi mới, tập dượt các kỹ năng làm việc vừa là nơi tạo nguồn tuyển sinh cho trường dạy nghề. Học sinh được quyền đổi tổ một lần nếu lần đầu tự xét thấy chọn không đúng. Đồng thời ở các khoá học, phải từng bước thực hiện “cai dạy”, nghĩa là luyện dần cho học sinh “tự học” qua tài liệu dưới sự hướng dẫn và kiểm tra đánh giá của thầy.
Về các trường dạy nghề, cần phải chuyển cho Bộ Giáo dục - Đào tạo quản lý . Giáo dục sẽ gồm hai mảng lớn: dạy nghề (cao cấp, tức là cao đẳng và đại học, trung cấp tức trung học nghề và trung học chuyên nghiệp hiện nay) và phổ thông. Cần thay đổi một số chủ trương để tăng sự hấp dẫn của các trường dạy nghề như đã đỗ tú tài thì không đi học trung cấp mà ít nhất được học cao đẳng (dĩ nhiên phải chống tiêu cực để có tú tài thực chất). Không nên tuyển cả lớp 9, cả lớp 12 vào cùng học trung cấp nghề. Phải triệt để khai thác các lực liên kết giữa “phổ thông” và “dạy nghề” (như ví dụ về lập các tổ ngoại khoá nói trên). Các trường dạy nghề phải cố sức đào tạo theo yêu cầu của xã hội, chứ không phải theo khả năng sẵn có. Cần khuyến khích việc doanh nghiệp mở trường (ví dụ như đại học FPT) và trường mở doanh nghiệp để học viên có điều kiện “vừa học, vừa làm”. Ngày nay, xã hội tiến lên với tốc độ chóng mặt. Phải vừa học, vừa làm mới bắt kịp tiến trình đó. Hai trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Việt Bắc đã từng đào tạo giáo viên theo hình thức “vừa học vừa làm giáo viên”, kết quả rất tốt. Cái thiếu nhất hiện nay chưa phải là tiền, mà là sự thiếu quan tâm của xã hội đối với hai chữ “tự học”.








