Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 15/08/2006 15:13 (GMT+7)

Kỹ thuật ương cá hương lên cá giống ba loài cá biển

I. Giới thiệu

Ba loài cá: cá song (cá mú) chấm nâu ( Epinephelus coioides), cá giò ( Rachycentron canadum) và cá hồng Mỹ ( Scyaenops ocellatus) là những đối tượng nuôi biển quan trọng của nhiều nước châu Á và cả ở nước ta. Việt Nam gần đây đã sản xuất được cá hương, cá giống của 3 loài cá biển nói trên.

Công nghệ sản xuất giống nhân tạo các loài cá biển này có đặc điểm chung là bao gồm nhiều công đoạn phức tạp, thời gian để hoàn thành một đợt sản xuất kéo dài 2-3 tháng, yêu cầu cơ sở vật chất và kỹ thuật cho mỗi công đoạn khác nhau về quy mô và trình độ, cá bố mẹ thành thục không có sẵn ngoài tự nhiên, ấu trùng cá biển ăn thức ăn là sinh vật phù du… Vì vậy, để sản xuất được số lượng lớn cá giống cần nghiên cứu tổ chức mô hình sản xuất chặt chẽ, đơn giản, dễ áp dụng, dễ phổ biến trong dân.

Toàn bộ quy trình sản xuất giống cá biển được chia ra 3 công đoạn như sau:

- Công đoạn 1: Nuôi vỗ cá bố mẹ và cho đẻ

- Công đoạn 2: Ương ấu trùng lên cá hương

- Công đoạn 3: Ương cá hương lên cá giống

Công đoạn 1 cần đầu tư lớn và đầu tư đón đầu từ 4-7 năm tuỳ loài cá. Mặt khác, để kiểm soát được chất lượng cá bố mẹ, cần tập trung ở một số ít cơ sở.

Công đoạn 2 bao gồm công nghệ ương cá bột lên cá hương và công nghệ sản xuất thức ăn sống (tảo đơn bào, luận trùng, Copepoda) là những vấn đề cốt lõi nhất của toàn bộ công nghệ sản xuất giống. Công đoạn này đòi hỏi điều kiện cơ sở hạ tầng vừa phải nhưng đòi hỏi trình độ công nghệ cao.

Công đoạn 3 tuy trình độ công nghệ không quá phức tạp, có thể phổ biến nhanh cho dân nhưng lại đòi hỏi lượng bể lớn. Một trại sản xuất có cơ sở vật chất ở quy mô trung bình có thể sản xuất khoảng 500.000 cá hương nhưng cũng với cơ sở vật chất đó chỉ đủ để ương khoảng 60.000-70.000 cá giống. Do vậy có thể sử dụng cơ sở vật chất của các trại tôm và xây dựng một số trại nhỏ chuyên ương cá biển: một trại tôm giống có công suất 10 triệu con giống/vòng sản xuất có thể được tận dụng để ương 30.000-40.000 cá giống/1vòng sản xuất khoảng 30-40 ngày.

Với mô hình chuyên môn hoá từng công đoạn như trên, Đài Loan đã sản xuất thành công hàng trăm triệu cá giống của hơn 20 loài cá kinh tế và quy trình sản xuất giống cá biển ở Đài Loan được phổ cập rộng rãi.

Để đạt mục tiêu 200.000 tấn cá biển nuôi vào năm 2010, chúng ta cần khoản 200-250 triệu cá giống. Với số lượng lớn giống như vậy, chúng ta cũng nên tổ chức sản xuất như mô hình của Đài Loan.

Do việc vận chuyển cá hương đơn giản hơn vì kích thước cá còn bé, ít hoạt động nên có thể vận chuyển được số lượng lớn làm giảm giá thành. Ngoài ra, ương cá hương lên cá giống ngay tại vùng nuôi sẽ nâng cao tỷ lệ sống và hạ giá thành sản xuất. Bên cạnh đó, hàng ngàn trại tôm giống trong vùng trọng điểm nuôi biển có thời gian nghỉ sản xuất tôm nên có thể tận dụng để ương cá biển.

II. Kỹ thuật ương cá hương lên cá giống

Cá hương (cá sau khi hoàn thành biến thái) có hình dạng ngoài và tập tính giống cá trưởng thành. Lúc này, cá song đã 45-50 ngày tuổi; cá hồng Mỹ 30-32 ngày tuổi, cá giò 35-36 ngày tuổi. Thời gian ương từ cá hương lên cá giống và kích thước cho mỗi loài như sau: cá song 30-35 ngày, kích thước cá hương 3,0-3,5cm, kích thước cá giống 7,0-8,0cm; cá giò 30-35 ngày, cá hương 3,5-4,5cm, kích thước cá giống 8-10cm; cá hồng Mỹ 30 ngày, kích thước cá hương 2,5-3,5cm, cá giống 5,0-5,5cm.

Ở giai đoạn cá hương, cá song đã bắt đầu chuyển sang sống đáy, thích ẩn nấp trong các hang hốc hoặc giá thể nhân tạo; cá giò và cá hồng Mỹ thích vận động, bơi lội trong tầng nước và cả 3 loài đều thích ăn thịt đồng loại.

1. Tạo nơi ẩn nấp cho cá

Đây là khâu quan trọng đối với ương cá song và nâng cao tỷ lệ sống nhằm hạn chế cá ăn thịt lẫn nhau.

Giá thể có thể là ống PVC, thùng bia… tốt nhất là màu đen bố trí đều, không có các hốc kín nhằm hạn chế cá chết do thiết ôxy cục bộ.

2. Thức ăn và kỹ thuật cho ăn

Thức ăn của cá giai đoạn này là cá tạp tươi xay nhuyễn, thức ăn tổng hợp hoặc thức ăn ẩm tự chế biến với thành phần và tỷ lệ như sau (bảng).

Cách làm: Các loài nguyên liệu được xay nhỏ, trộn đều và tạo viên qua các mặt sàng với kích cỡ khác nhau tuỳ theo kích cỡ miệng cá. Phơi viên ẩm trong bóng râm 1-2 giờ sau đó cho ăn ngay hoặc cất giữ trong điều kiện lạnh dưới 4 0C.

- Cho ăn ngày 4-5 lần, đến mức cá không ăn nữa.

Chú ý: - Không cho ăn thừa để tránh lãng phí và làm ô nhiễm môi trường nuôi.

- Không cho ăn trước khi tiến hành kiểm tra, san lọc hoặc các hoạt động khác gây sốc cho cá. Thức ăn ẩm nên sử dụng trong ngày

Thành phần và một số chỉ tiêu của thức ăn tự chế biến

Thành phần

Bột cá

Cá tạp

Bột cám

Vitamin

Khoáng

Tỷ lệ (%)

35

47

15

2

1

Hệ số chuyển đổi thức ăn

1,35

Tỷ lệ sống (%)

98

Tốc độ tăng trưởng (% khối lượng/ngày)

0,36

3. San lọc và phân cỡ cá

Nếu để cá có kích thước không đều nhau trong cùng một bể, chúng sẽ ăn thịt lẫn nhau ngay cả khi có đủ thức ăn. Tỷ lệ hao hụt do nguyên nhân này có khi lên tới 40-60%. Hàng tuần, tuỳ mức độ phân đàn mà phải phân cỡ cá một lần. Dụng cụ phân cỡ cá là một loại rổ lọc có các cỡ mắt lưới khác nhau, thông thường mỗi mắt lưới có độ chênh lệch khoảng 1mm. Khi lọc, phải tuỳ thuộc vào cỡ cá thực tế mà chọn bộ lọc có cỡ thích hợp.

- Ngừng cho ăn trước khi phân cỡ khoảng 12 giờ.

- Cho cá vào rổ lọc, những con có kích thước nhỏ sẽ lọt xuống đáy, con lớn nằm lại sẽ được chuyển sang bể khác.

- Yêu cầu khi thao tác phải nhanh gọn, nhẹ nhàng để hạn chế sốc, tránh nhấc cá lên khỏi mặt nước quá lâu.

4. Quản lý môi trường nuôi

Chế độ thay nước: Đối với hệ thống bể lọc sinh học, cho nước liên tục chảy qua bể nuôi với lưu lượng khoảng 70m 3/giờ/120m 3bể ương. Đối với hệ thống hở - bể nuôi dùng nước chảy qua, hàng ngày thay khoảng 100% - 300% nước tuỳ theo giai đoạn phát triển, mức độ ô nhiễm nước và mật độ cá thả.

Xiphon và vệ sinh đáy bể: Phải làm thường xuyên để đảm bảo môi trường nuôi sạch, không bị ô nhiễm.

- Một số chỉ tiêu môi trường nuôi:

Độ mặn: 25 – 32 0/ 00, Nhiệt độ : 25 – 28 0C, pH: 7,5 – 8,5, NH 3dưới 0,5mg/l, DO trên 4mg/l.

5. Một số bệnh thường gặp và biện pháp phòng trị

Bệnh do virus:

Thường gặp là hội chững VNN (Viral Neutral Necropsis). Đây là loại bệnh nguy hiểm nhất, thường xảy ra ở cá song giai đoạn ấu trùng và chuyển biến thái. Triệu chứng thường gặp là cá bơi mất phương hướng, nổi lập lờ trên mặt nước và thường chết hàng loạt. Các cơ quan bị nhiễm thường gồm não bộ và mắt. Cá bệnh thường có tỷ lệ chết cao và nhanh.

Phòng trị: Chưa có biện pháp chữa bệnh, chủ yếu là phòng bệnh. Một số biện pháp phòng bệnh cần áp dụng là: Kiểm tra virus cho đàn cá bố mẹ và cá giống để có giống sạch bệnh, hạn chế lây truyền theo chiều dọc. Đảm bảo môi trường nuôi sạch, tiệt trùng các bể và các dụng cụ khác trước khi dùng để hạn chế lây truyền theo chiều ngang. Cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho cá, tránh làm sốc cá khi vận chuyển và thả giống. Nuôi mật độ vừa phải, tránh thả quá dày để tăng cường khả năng kháng bệnh của cá.

Bệnh do vi khuẩn:

Dấu hiệu thường gặp là: lở loét, vây bị rữa, xuất huyết dưới da, có khối u, màu sắc đậm, mắt đục, mắt lồi, có xuất huyết hoặc không. Bệnh này thường xảy ra với cá song và cá hồng Mỹ, cá thường chết ở đáy.

Nguyên nhân: Đã phân lập được một số loài Vibrio trong đó có hai loài V. alginolyticus, V. vulnifcusvà 1 loài Pseudomonas sp.Hai nhóm Vibrio spp, Pseudomonas spluôn tồn tại trong nước biển, khi điều kiện môi trường thay đổi xấu làm giảm sức đề kháng của cá, vi khuẩn sẽ xâm nhập vào cá và gây bệnh.

Phòng bệnh: Duy trì mật độ cá thích hợp trong hệ thống ương nuôi, bảo quản tốt thức ăn của cá. Định kỳ tắm nước ngọt khi có nguy cơ nhiễm bệnh cao.

Trị bệnh: Dùng Oxytetracyclin tắm với liều lượng 50-100g/m 3nước trong 1 giờ, liên tục 7 - 10 ngày.

Bệnh do ký sinh trùng:

Thường gặp ở cá giống của cả 3 loài. Các cơ quan bị nhiễm thường là mang và bề mặt thân với biểu hiện là mang có màu nhạt, cá yếu trong thời kỳ nhiễm bệnh. Kỹ sinht rùng sẽ phá huỷ các mô của ký chủ, tạo dịch nhày bám trên mang, gây khó khăn cho hô hấp của cá. Khi bị nặng cá có thể chết hàng loạt.

Nguyên nhân: Do loại trùng bánh xe Trichodina sp.sống ký sinh trong mang và da cá.

Điều trị: Tắm cá bằng dung dịch formalin 70-150ppm trong 30 - 60 phút kèm sục khí mạnh hoặc bằng formalin 25 ppm trong 1-2 ngày kèm sục khí mạnh ¨

Lê Xân
Viện nghiên cứu NTTS I

Nguồn: Tạp chí Thủy sản số 8/2005

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.