Kỷ niệm 20 năm Đổi mới: Trường Chinh - Tổng Bí thư của đổi mới
Thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, tôi hoạt động ở miền Nam . Khi đó, chúng tôi chỉ biết tên các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và thường hình dung bằng diện mạo, phong thái qua cương vị công tác của từng đồng chí. Tới cuối năm 1950, ra chiến khu Việc Bắc dự Đại hội Đảng lần thứ II, tôi mới được gặp các đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Tôi còn nhớ, ấn tượng đầu tiên của tôi là thấy đồng chí Trường Chinh và đồng chí Võ Nguyên Giáp có gương mặt hao hao giống nhau. Trong đầu tôi nãy ra một ý nghĩ khá thú vị: Trong số ba người học trò yêu của Bác Hồ, ba trụ cột về Đảng, Chính phủ, Quân đội thì dường như đồng chí phụ trách công tác Đảng và đồng chí phụ trách quân sự là một cặp.
Hồi đó, anh em trong đoàn đại biểu Nam Bộ chúng tôi thường hay làm nũng Bác Tôn và đôi khi cả Bác Hồ để “vòi vĩnh” bánh kẹo, thuốc lá. Riêng với đồng chí Trường Chinh, chúng tôi không dám vì thấy đồng chí luôn nghiêm nghị. Từ đồng chí toát ra cái gì đó vượt lên trên đời thường, người thường và mang phong thái của một lãnh tụ. Đứng trước đồng chí, tôi có cảm giác mình thật nhỏ bé và dường như những hiểu biết, suy nghĩ đều bị đọc ra cả.
Sau Đại hội Đảng lần thứ II, tôi được học lớp Hoa Nam ở Trường Nguyễn Ái Quốc III, khoá 6 tháng, trước khi đi đường bộ vào lại chiến trường Nam Bộ. Một lần, trường tổ chức liên hoan văn nghệ. Tôi tham gia tiết mục đóng kịch, vào vai một địa chủ. Khi biết có đồng chí Trường Chinh tới dự, coi biểu diễn, mặc dù được liệt vào loại “gan to”, nhưng tôi cũng thấy “ớn”. Trước khi bắt đầu, tôi phải xung phong làm một màn múa lân cho nóng người để lấy can đảm. Hết vở kịch, các đồng chí là khách mời đều khen, động viên. Đồng chí Trường Chinh bắt tay tôi: “Đồng chí diễn khá lắm, nhưng đấy là địa chủ Nam Bộ chứ không giống địa chủ Bắc Bộ”. Mãi tới lúc này, tôi vẫn thấm thía lời nhận xét vừa mang tính khích lệ vừa mang tính nhắc nhở: Làm bất cứ việc gì cũng phải nghiên cứu, đào sâu suy nghĩ.
Một điều đặc biệt là, dù tiếp xúc với đồng chí Trường Chinh ít so với các đồng chí lãnh đạo cao cấp khác, nhưng trong thời gian ở chiến khu Việt Bắc cũng như trong suốt kháng chiến chống Pháp, tôi thường nhớ tới đồng chí với tất cả sự kính trọng và lòng tin vững chắc. Hồi đó, sách vở hiếm hoi lắm. Tôi có cuốn Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợicủa đồng chí Trường Chinh và coi đó là cuốn sách gối đầu. Mỗi khi đọc, tôi lại thấy hiện lên hình ảnh đồng chí Tổng Bí thư nghiêm trang, trí tuệ.
![]() |
| Tổng Bí thư Trường Chinh (giữa), đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Phạm Văn Đồng trong ngày Độc lập 2/9/1945. |
Lúc ngoài Bắc làm cải cách ruộng đất, tôi chỉ được nghe tình hình do một số đồng chí có dịp ra công tác nói lại trong nội bộ. Hồi đó, đồng chí Lê Duẩn mới từ miền Bắc trở vào, nói với chúng tôi: Cải cách ruộng đất có gì đó không ổn. Ở nhiều vùng, trước đó cơ quan tỉnh, huyện đóng tại nhà dân. Tới cải cách, vẫn những đồng chí đó không ai dám nhận người đã cho mình chung sống dưới một mái nhà như người trong gia đình. Thậm chí các cháu nhỏ hết sức vô tư, theo thói quen chạy lại vồ vập chào hỏi thì quay mặt đi, coi như không quen biết. Chua xót quá.
Việc đồng chí Tổng Bí thư đứng ra nhận khuyết điểm, nhận kỷ luật trước Đảng về chỉ đạo cải cách ruộng đất, giúp tôi nhận thức sâu sắc thêm về nguyên tắc Đảng. Là người Đảng viên, dù ở cương vị nào cũng luôn nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật Đảng. Sau này, khi ra Trung ương công tác, có dịp được trực tiếp chứng kiến sự cộng tác trên tinh thần đồng chí, rất mực tôn trọng nhau giữa đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Trường Chinh, tôi càng kính trọng đồng chí và tự nhủ: Trường Chinh thực sự là tấm gương mẫu mực về tính nguyên tắc và nghị lực cộng sản.
Sau giải phóng, tôi làm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh. Khó khăn chồng chất, vướng mắc đủ bề. Chúng tôi ngược xuôi mò mẫm mọi cách để tháo gỡ khó khăn. Đồng chí Phạm Văn Đồng hay gọi đùa tôi là “ Chủ tịch gạo”, “ Chủ tịch heo”. Có đồng chí gán cho tôi cái tên “ Tướng vượt rào”. Mỗi năm vài lần, tôi ra Hà Nội báo cáo công việc. Trong những cuộc hội nghị như vậy, không ít đồng chí không đồng tình với những giải pháp do Thành phố đề xuất. Đồng chí Trường Chinh thường nghe rất chăm chú. Những câu hỏi, ánh mắt của đồng chí mách bảo tôi rằng đồng chí ý thức được có nhiều vấn đề mới mà thực tiễn đang đặt ra, dù có điều trái ngược với những gì vẫn được coi là đúng, là chính thống từ trước tới nay. Đối với chủ trương cải cách công thương nghiệp miền Nam , đồng chí Trường Chính cũng bộc lộ thái độ quyết liệt như một số đồng chí khác. Thái độ của đồng chí Trường Chinh khi đó động viên, khích lệ tôi rất nhiều vì tôi hiểu rằng đồng chí vốn là “cây” lí luận và là người hết sức chặt chẽ, nghiêm khắc (ngay cả với vấn đề khoán nông nghiệp, dù đã quyết định theo đa số, đồng chí vẫn bảo lưu ý kiến không đồng tình của mình).
![]() |
| Từ phải sang: Đồng chí Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh tại Việt Bắc năm 1950. |
Đồng chí Lê Duẩn qua đời, đồng chí Trường Chinh được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Tổng Bí thư và bắt tay chuẩn bị Đại hội VI. Phải nói rằng, vào thời điểm đó chỉ có đồng chí Trường Chinh với hiểu biết sâu sắc về lý luận, và hình ảnh một đồng chí hết sức nguyên tắc, có phần cứng theo kiểu chính thống, mới có thể chỉ đạo thành công Đại hội VI - Đại hội của Đổi mới. Điều tôi thấy hết sức thú vị là “tác giả” - nói chính xác hơn là “chủ biên” - của Đổi mới lại là một người vốn được coi là hết sức “cứng” như đồng chí Trường Chinh. Tôi hiểu rằng, đồng chí đã chú ý nghe từ nhiều phía và đặc biệt là đã coi trọng ý kiến của những cán bộ có tư duy, dám nói thật, nói rõ quan điểm của mình. Đồng chí là người rất kiên trì đấu tranh với mọi ý tưởng, mọi sự việc mà theo đồng chí là không đúng và cũng rất quyết đoán đối với những điều mà đồng chí cho là đúng đắn, đủ cơ sở.
Tôi cũng có điều kiện tham gia ở mức độ nhất định vào quá trình chuẩn bị văn kiện Đại hội VI. Đồng chí Trường Chinh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo và đích thân sửa chữa từng câu, chữ trong dự thảo văn kiện. Qua thực tiễn công việc sau này, tôi càng thấy chi tiết có vẻ mang tính kỹ thuật đó rất quan trọng, cần thiết. Đối với những tài liệu liên quan tới các chủ trương lớn, nếu người lãnh đạo không trực tiếp cho định hướng rõ ràng mà “giao khoán” cho anh em biên tập thì sau này dù có sửa đi, sửa lại cũng có đạt đúng tầm cần thiết, mong muốn. Cuối giai đoạn chuẩn bị, cần thời gian xem xét tỉ mỉ tới từng câu chữ để bảo đảm mọi ý tứ đề được thể hiện.
Trong số các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, đồng chí Trường Chinh nổi tiếng là người rất kỹ tính trong việc sử dụng câu chữ. Tôi có một kỷ niệm nhỏ, khó quên. Quãng đầu năm 1976, trong một buổi họp với lãnh đạo Thành phố, đồng chí Trường Chinh nói riêng với tôi cần lưu ý tới một nhân vật đang sống ở Thành phố. Tôi giở sổ ghi tên nhân vật này. Do thói quen, tôi ghi họ nhân vật này thành “Nguyển” thay vì “Nguyễn”. Ngồi cạnh tôi, đồng chí Trường Chinh ngó qua và bảo: “Đồng chí viết lộn rồi, dấu ngã chứ không phải dấu hỏi”.
![]() |
| Tổng Bí thư Trường Chinh nói chuyện với cán bộ cao cấp toàn quân chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, 12/1953. |
Đồng chí Trường Chinh không trực tiếp có mặt ở chiến trường miền Nam như các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Thọ… Nếp sinh hoạt, phong cách của đồng chí cũng có phần khác so với các đồng chí đó. Vì vậy, một thực tế là có một số đồng chí Nam Bộ dùng kính trọng nhưng ít gần gũi thân mật với đồng chí. Tuy nhiên, với những gì đồng chí đã làm để đưa Đảng ta, đất nước ta bước vào công cuộc Đổi mới, tất cả đều rất mực quý mến và tin tưởng đồng chí. Tôi được biết, trong thời gian chuẩn bị nhân sự Đại hội VI, một số đồng chí lặn lội từ miền Nam ra, tới xin gặp đồng chí Trường Chinh để “năn nỉ” đồng chí tiếp tục làm Tổng Bí thư thêm một nhiệm kỳ nữa. Điều này thật không ai có thể hình dung được trước đó.
Trong ký ức tôi, đồng chí Trường Chinh luôn là một nhà lãnh đạo uyên thâm, đáng kính. Đồng chí là tấm gương lớn về nghị lực, nguyên tắc. Đồng chí chẳng những là người có công lớn trong việc khởi xướng Đổi mới mà còn đóng góp lớn cho việc giữ gìn kỷ cương trong Đảng. Những cống hiến to lớn của đồng chí cho sự nghiệp của Đảng, của dân tộc ta mãi được trân trọng và những bài học quý báu đồng chí để lại cho chúng ta vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt là vào thời điểm toàn Đảng ta đang nỗ lực thực hiện nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế và nhiệm vụ then chốt là chỉnh đốn, xây dựng Đảng, nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển.
Nguồn: Văn hiến Việt Nam , số 1, 1/2006, tr 6-9











