Khuyến học: Khuyến tự học, Khuyến cách học
Hiện nay cả nước ta đã có ngót chín nghìn trung tâm học tập cộng đồng. Đó là một thành tích khuyến học lớn. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự phát triển về bề rộng. Còn bề sâu? Lấy cái gì để đo và để vạch hướng tiếp tục.
Người lao động Việt Nam đã đưa gì vào hàng hoá của mình
Tại sao người lao động nước ta lại kém sáng tạo so với người lao động Nhật Bản hay Hàn Quốc? Lấy số bằng sáng chế (patent) của người lao động trong cùng đơn vị thời gian mà đo thì Nhật hơn ta khoảng 1500 lần. Hàn Quốc hơn ta khoảng 1000 lần. Hàng hoá Nhật trước kia kém hàng hoá Tây Âu; người Nhật phải đi học Tây Âu và đã vượt Tây Âu trở thành siêu cường kinh tế số 2. Người ta bảo: “Người lao động Nhật đã đưa được vào hàng hoá của Nhật một trình độ cao về công nghệ và một trình độ cao về văn hoá (văn hoá hiểu theo nghĩa rộng) nên hàng Nhật được ưa chuộng khắp thế giới, làm lao đao hàng Tây Âu, hàng Mỹ.
Còn người lao động Việt Nam đã.đưa được gì vào hàng hoá của mình? Ta thường quy tội những yếu kém của người lao động Việt Nam cho giáo dục chính quy. Như vậy là phiến diện. Phải nhìn toàn diện cả giáo dục chính quy (giáo dục ban đầu), cả giáo dục không chính quy (giáo dục tiếp tục), cả giáo dục phi chính quy (tức là giáo dục thường xuyên thông qua sự cọ sát hàng ngày với thực tiễn như ở trong câu: “đi một ngày đàng, học được một sàng khôn”) và phải thấy rõ mới tác động qua lại giữa ba cách giáo dục nói trên.
Học chính quy, không chính quy và phi chính quy
Sau khi có Hội khuyến học, đã có ngót chín nghìn trung tâm học tập cộng đồng. Nhưng hầu như nền giáo dục của ta chỉ mới loay hoay với giáo dục chính quy. Giáo dục không chính quy hầu như chưa vượt được tầm “xoá mù chữ, bổ túc văn hoá”.
Phần ngân sách giáo dục giành cho giáo dục không chính quy quá thấp (khoảng hơn 2%) và cơ quan quản lý (vụ giáo dục thường xuyên trong cơ quan Bộ giáo dục - đào tạo) còn xa mới đủ tầm, đủ lực để quản lý số học viên không chính quy vừa rất đông, vừa có nhu cầu học rất phức tạp, đa dạng.
Như vậy, tuy đã nhận thức được rằng “ngày nay ai cũng phải học suốt đời” nhưng hành động chưa theo kịp.
Về nội dung học không chính quy thì cực kỳ phức tạp, phải có những cơ quan chỉ đạo, cơ quan tư vấn chuyên nghiệp. Ở đây chỉ xin nói đến phương châm “cần gì học nấy, học để làm ngay”. Phương châm này có lẽ chỉ đúng trong một giai đoạn đầu, khi mà học viên là những người lớn tuổi, khi còn trẻ ít được học.
Trong tương lai, đối tượng học có thể khác, khi còn trẻ đã được học nhiều, theo trình độ phổ cập giáo dục. Họ có tầm nhìn và vì vậy có thể yêu cầu học những cái chưa cần ngay nhưng sẽ cần trong một tương lai nào đó. Rồi những người về hưu cũng cần học không phải để làm mà để sống chung với người khác mà không bị lạc long, trước hết ngay với con cháu trong nhà.Nội dung học không chỉ có khoa học và công nghệ mà cả văn hoá (theo nghĩa rộng).
Trước khi nói đến “cách học”, xin hãy dừng lại một chút với hai chữ “tự học”. Nhiều người nghĩ đơn giản rằng “tự học” là học không có thầy ở bên cạnh. Hiểu như vậy nên người ta sợ “tự học”, cho rằng chỉ những người thật thông minh mới “tự học” được. Nghĩ thế nên khi có nhu cầu học, người ta chờ có trường, có lớp, có thầy, như vậy rất bị động và rất chậm lại tốn kém nữa.
“Học” về cơ bản là “tự học” vì học là học cho mình, để mình giỏi lên, tốt lên, nên bản thân phải rất cố gắng. Có thể là có thầy ở bên cạnh để giúp đỡ, giải thích, uốn nắn nhưng cuối cùng thì người học vẫn phải thắng được những ngại ngần để làm cho được như lời thầy bảo. Một thầy giáo chỉ biết dạy sao cho dễ hiểu, dễ ghi, dễ nhớ thì chưa phải là thầy giỏi vì như vậy chỉ làm cho học sinh tiếp thu thụ động, kiến thức vào đầu họ sẽ phẳng lặng như mặt nước trong một cái ao nhỏ. Người thầy giỏi phải kích thích được học sinh cố gắng hết sức mình, sao cho kiến thức vào đầu họ sẽ như mặt nước đại dương luôn luôn nổi sóng.
“Tự học” là phần người học cố gắng hết mức để học dù có thầy bên cạnh hay không. Khi có thầy bên cạnh thì biết tận dụng thầy nhưng không ỷ lại vào thầy. Nghĩa là không phí thời gian để hỏi thầy những điều không đáng hỏi, tự mình cố gắng lên là tự giải đáp được, đã hỏi thì hỏi những điều thật đích đáng, sau khi đã suy nghĩ chán ra rồi mà vẫn không tự giải đáp được.
Không có thầy bên cạnh thì các tài liệu học tập (in, điện tử) cũng là thầy. Thậm chí, nghiên cứu khoa học tìm ra những điều mới chưa ai biết thì cũng phải đứng lên vai của những người đi trước thì những người đó cũng là thầy. Einstein cũng phải đứng lên vai của Newtonnên cũng phải coi Newton là thầy. Hiểu như vậy thì câu “Không thầy đố mày làm nên” khi nào cũng đúng.
“Giáo dục tiếp tục” thì không thể nào tổ chức như “giáo dục ban đầu” vì lấy đâu ra trường sở, lấy đâu ra thầy và quỹ nào trả lương cho thầy. Cho nên phải tận dụng hình thức “tự học” không có thầy bên cạnh, rút đến mức tối thiểu thời gian có thầy bên cạnh. Nhưng vẫn phải bảo đảm chất lượng.
Có suy nghĩ sâu và toàn diện như vậy mới định được phương hướng tiến lên nhanh trên con đường nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
… và hướng phấn đấu
-Giáo dục chính quy phải tổ chức những lộ trình từng bước “cai dạy” cho học sinh giống như người mẹ chuẩn bị lộ trình từng bước “cai sữa” cho con. Ngay từ lớp 2 (sau khi trẻ đã đọc thông viết thạo ở lớp 1) mỗi học sinh được giao một tài liệu vừa sức (ví dụ một quyển chuyện nhi đồng) để tự đọc lấy rồi báo cáo nội dung với giáo viên. Càng lên lớp trên, nội dung “tự đọc lấy mà học” càng phong phú, càng khó, đến một trình độ nào đó, có thể giao cho tự đọc cả tài liệu tiếng nước ngoài. Đi từng bước vừa sức như vậy thì hết lớp 12, học sinh đã rất quen học không có thầy bên cạnh và đến khi đó tú tài nào cũng được học Đại học (nếu muốn) không bằng giáo dục chính quy thì bằng giáo dục không chính quy.
Mỗi trường Đại học hay Cao đẳng sẽ có cả hai hệ chính quy và từ xa song song thi đua với nhau, hệ chính quy dương cao ngọn cờ chuẩn mực, hệ từ xa dương cao ngọn cờ tự học, tổ chức những kỳ thi chung cho sinh viên cả hai hệ để cấp các tín chỉ (bỏ chế độ niên chỉ). Khi đó, mọi tú tài, nếu muốn học Đại học (Cao đẳng) đều có chỗ học thích hợp với khả năng của mình (sẽ phân tầng trình độ Đại học từ đẳng cấp quốc tế xuống đến Cao đẳng cộng đồng, có Đại học dài hạn, trung hạn, ngắn hạn đến Cao đẳng thiết thực 2 năm). Tình hình này sẽ xoá bỏ kỳ thi tuyển sinh vào Đại học và xoá luôn nạn dạy thêm, học thêm tràn lan và như vậy càng kích thích làm tốt các lộ trình “cai dạy”.
Thời đại này phải tận dụng công nghệ thông tin để tạo thuận lợi tối đa cho giáo dục. Vì vậy nên thay cụm từ “giáo dục thường xuyên” bằng cụm từ “giáo dục từ xa” để nhấn mạnh đến việc khắc phục khoảng cách không gian (xa) là cái gây khó khăn, cản trở nhiều nhất cho việc phát triển giáo dục. Đồng thời phải tranh thủ giáo dục phi chính quy để thực hiện khẩu hiệu: “học mọi lúc, học mọi nơi, học mọi người, học bằng mọi cách, học trong mọi hoàn cảnh, học qua mọi nội dung”. Học như vậy thì nội dung và cách học thay đổi hơn nên không mệt như khi vùi đầu vào sách vở suốt ngày. Mệt thì đi chơi hoặc bày ra những trò chơi để học. Ví dụ như tìm quy luật phân bố các con số trong một số điện thoại; để làm gì? để luyện cho bộ óc thính, nhạy với các quy luật, nhìn vào đâu cũng thấycó quy luật ẩn trong đó, kích thích lòng ham muốn tìm quy luật rồi dùng quy luật (lợi ích nhỏ hơn là nhớ được số điện thoại mà không cần ghi vào sổ hay máy điện thoại di động). Cũng qua giáo dục phi chính quy mà tự giáo dục về văn hoá (theo nghĩa rộng) như thưởng thức “ca trù” cũng sẽ thêm được tí chút văn hoá vào các sản phẩm lao động của mình.
Nếu như trong quân sự có ba thứ quân hỗ trợ lẫn nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân thì trong giáo dục có giáo dục chính quy, không chính quy và phi chính quy hỗ trợ lẫn nhau, sẽ làm cho giáo dục nước ta trở nên đầy sức sống.
Nguồn: giaoducvietnam.vn, 17/4/2008







