Khoa học công nghệ ở ĐBSCL - những vấn đề đang đặt ra: Ngổn ngang giống lúa
Thay đổi tập quán: Không dễ!
Theo khẳng định của GS.TS Bùi Chí Bửu, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, chiến lược thành công nhất của ĐBSCL trong 20 năm qua là tạo được giống lúa cực sớm (các giống OMCS). Với cùng thời gian thực hiện cuộc “cách mạng xanh” và cùng điều kiện thổ nhưỡng như ĐBSCL (cũng có vùng đất ngập nước) nhưng Bangladesh lại chuyển đổi rất chậm “do chiến lược phát triển bộ giống của họ sai”.
TS Bửu lý giải: Bangladesh chỉ thành công trong vụ đông -xuân nhưng lại thất bại ở vụ hè - thu. Còn ĐBSCL khi xác định “chung sống với lũ” đã mở mũi đột phá bằng bộ giống dưới 90 ngày nên đã “bội thu” nhờ diện tích lúa vụ hè - thu tăng lên 1,4 - 1,5 triệu ha và năng suất tăng từ 2 tấn lên 10 tấn! “Lượng” tăng nhưng còn “chất” gạo? TS Bửu nói vui: “Thái Lan chỉ giỏi ký kết hơn ta. Họ luôn có thế mạnh ký kết trước các hợp đồng xuất khẩu gạo với giá hời”.
Trước đây trong xuất khẩu gạo, chúng ta thua Thái Lan 20 - 40 USD/tấn, hiện nay khoảng cách này đang rút ngắn, thậm chí có lúc chỉ thua 2-3 USD/tấn. Có được gạo chất lượng phải nói đến công nghệ hạt giống ĐBSCL có những bước tiến vượt bậc: Cách đây 5 năm, hạt giống tốt (giống xác nhận) chỉ có 2%, đến năm 2003 nâng lên 10%, năm 2004 - lên 20% và đến năm nay đã có 34% diện tích đất trồng sử dụng giống xác nhận.
Nhưng đằng sau những con số thật sự ấn tượng này vẫn còn gợn những mối lo âu thật sự khi chúng ta để mặc “người nông dân tư duy trên mảnh đất của mình”. Thứ nhất, diện tích lúa canh tác đang mỗi năm mỗi giảm, trung bình giảm khoảng 60.000 ha/năm. Và hiện nay để đảm bảo an toàn lương thực chúng ta cố giữ diện tích lúa canh tác khoảng 4 triệu ha. Vì dù gì thì cứ “hết gạo chạy rông, nhất nông, nhì sĩ”… không thể để mặc người dân phá lúa chuyển sang làm thủy sản tràn lan.
Thứ hai, thói quen “phường hội” chỉ thấy cái lợi trước mắt mà hùa nhau vào làm đã khiến tương lai ruộng lúa bấp bênh hơn bao giờ hết. Điều này phần nào lý giải tại sao vừa qua dịch rầy nâu bùng phát và thông tin “cháy rầy” đã khiến các nhà khoa học phải “cháy lòng” vì búa rìu dư luận.
TS Bửu giải thích rõ: Trong nhiều nguyên nhân thì nguyên nhân số 1 là tính chu kỳ: Cứ 10 năm hoặc 5-7 năm, rầy nâu xuất hiện một lần tùy theo trình độ thâm canh của nông dân. Trong lịch sử, chỉ có con rầy nâu mới làm nông dân 3 tỉnh bị đói phải “tha phương cầu thực” và có lúc chính phủ phải huy động cả trực thăng để phun thuốc diệt rầy. Ngoài ra, còn nguyên nhân cơ bản nữa là do đa dạng di truyền quá hẹp: Nếu trồng một giống lúa trên 30% diện tích thì sẽ bị rầy nâu đánh.
Ông Bửu bức bối: Chúng tôi đã khuyến cáo người dân không nên trồng Jasmine quá 10% diện tích (ví dụ chúng ta có 1 triệu ha lúa đông xuân thì Jasmine không được trồng quá 100 ngàn ha), song bà con thấy lóa mắt vì giá cao (ta xuất gần 200 ngàn tấn với giá tới 380 USD/tấn) đã đùng đùng đi trồng tới 300 ngàn ha Jasmine! Tuy nhiên, giống lúa này lại là nơi cư trú lý tưởng để rầy nâu sinh đẻ và tràn qua các ruộng lúa khác. Liệu có giải pháp tối ưu cho một giống lúa vừa không bị rầy cắn vừa bán có giá? TS Bửu khẳng định: “Nếu chúng ta tạo giống kháng mạnh sẽ gây áp lực để rầy nâu biến đổi di truyền thành loại mới rất nguy hiểm. Chiến lược tạo giống kháng trung bình là đúng. Và tôi cũng xin nói thêm: Tập quán dân ta thay đổi không dễ!”.
Nhân giống quá chậm
30 năm qua, lúa ta đã thành lúa cao sản, sản lượng không phải lo, năng suất thì đụng trần. Chỉ còn vấn đề tối quan trọng là chất lượng khi xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu “2 trong 1” - vừa “cao sản” lại vừa “đặc sản”. Ông Trương Thanh Phong, Tổng Giám đốc Tổng công ty Lương thực miền Nam cho biết thị trường thế giới hiện nay rất chuộng gạo chất lượng cao (CLC), gạo thơm. Giá chào bán so với loại thường “vênh” nhau tới 100 -120 USD/tấn. Năm nay, dự kiến số lượng gạo CLC xuất khẩu có thể đạt 800.000 tấn, tức là tăng gấp đôi so với năm 2003.
Tuy nhiên, theo thừa nhận của ông Phong, công tác nhân giống lúa xác nhận hiện còn rất khó khăn, tiến độ thực hiện chậm đã làm chậm trễ việc nhân rộng diện tích ở các địa phương. Theo Cục Nông nghiệp, tỷ lệ giống xác nhận cung cấp cho kế hoạch xây dựng 1 triệu ha lúa CLC hiện mới chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu. Câu hỏi đặt ra: Tại sao nông dân chưa mặn mà với công tác “xã hội hóa” chương trình sản xuất giống?
Ông Nguyễn Văn Khang, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Tiền Giang bức xúc: Chính sách nhà nước hỗ trợ theo chương trình giống quốc gia mới chỉ dừng lại ở cấp viện nghiên cứu và cấp tỉnh. Những hộ dân đang sản xuất giống theo dòng xác nhận chưa được hưởng bất kỳ chính sách ưu đãi nào. Họ phải mua giống nguyên chủng (từ các trại giống của tỉnh) với giá cao - tới 3.700 -3.800 đồng/kg, nhưng khi bán ra chỉ tương đương giá lúa thường, tức là khoảng 2.200 - 2.300 đồng/kg. Lỗ vậy nên chẳng mấy ai “ham” tham gia chương trình tự nguyện sản xuất giống. Trong khi đó, 4 trại giống ở tỉnh này có “căng sức” sản xuất cũng chỉ được trên dưới 500 tấn giống từ dòng nguyên chủng đến xác nhận để bán cho nông dân. Số lượng đó, rõ ràng không thấm vào đâu so với nhu cầu giống lúa CLC của nông dân trong tỉnh. Ông Khang kiến nghị cần bổ sung chính sách trong chương trình giống quốc gia đến tận hộ tình nguyện sản xuất giống và “phải hỗ trợ giá chênh lệch cho họ”.
Ngoài các giống lúa mang tính thị trường do yêu cầu “hội nhập” kể trên, một vấn đề đáng lưu tâm nữa là “bảo tồn và phát triển” các giống lúa nội địa được chọn tạo thành công như các giống lúa ST1, ST5 và đặc biệt là ST3 - một kết quả rất quan trọng cho sản xuất lúa ở Sóc Trăng và ĐBSCL.
Theo PGS.TS Lê Xuân Thám, Phó Giám đốc Trung tâm Hạt nhân TP. Hồ Chí Minh, đây là nguồn gen tổ hợp rất quí, duy trì được nguồn gien thơm chất lượng cao từ lúa đặc sản Thái Lan khi lai với dạng hình Japonica Đài Loan, được coi là dạng đột biến tự nhiên hiếm có. Trong đó, dòng ST3 có thể coi là một phát hiện hết sức quý giá, thể hiện nhiều tính trạng vượt trội: hạt gạo hầu như trong suốt, rất dài, thơm dịu, dạng hình cây khá gần chuẩn lý tưởng. Tuy nhiên, ST3 cũng có nhiều nhược điểm cần khắc phục: cây hơi yếu, hạt hơi thưa trên bông, vỏ trấu hơi dày, kém chịu phèn, tỷ lệ lép cao. Và TS Thám đã đề xuất cách khắc phục bằng xử lý chiếu xạ hạt nhân tạo đột biến cho cây. Đây cũng là một cách tiếp cận hiện đại bên cạnh các phương pháp lai hữu tính kinh điển, lai ưu thế và công nghệ tế bào. Rõ ràng triển vọng có được các giống lúa lý tưởng cho Việt Nam không còn là chuyện xa vời…
Nguồn: Sài Gòn Giải Phóng 11/4/2006








