Khoa học cơ bản và nghiên cứu cơ bản
Khái niệm chung
“NCCB” và “KHCB” là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, nhưng rất tiếc, có nhiều người đã nhầm lẫn “NCCB” với “KHCB” và “Nghiên cứu KHCB”. Tại một hội thảo bàn về NCCB ở Hà Nội vào tháng 10.2005, trong số 10 báo cáo tham luận về NCCB có tới 4 báo cáo có sự nhầm lẫn này, trong đó có vị là lãnh đạo phòng quản lý khoa học của một trường đại học, một số thậm chí là tiến sĩ, giáo sư và phó giáo sư.
KHCB là một khái niệm thuộc về phân loại khoa học, hoàn toàn khác với phân loại nghiên cứu khoa học. Hiệp hội KHCB quốc tế xem “KHCB gồm toán học, vật lý học, hoá học, sinh học” 1. Chúng tôi đã tra cứu rất kỹ các sách về phân loại khoa học, nhưng rất tiếc không có sách nào đưa ra một định nghĩa mạch lạc về KHCB, kể cả một cuốn sách rất kinh điển về phân loại khoa học của V.M. Kedrov, có tên là “ Classification des sciences” xuất bản năm 1977. Trong cuốn sách này, Kedrov chỉ đưa ra một số bộ môn khoa học được xem là KHCB theo ý kiến trích dẫn của một vài tác giả khác.
Cuối cùng, sau một thời gian tìm kiếm, chúng tôi cũng đã tìm được một định nghĩa về KHCB trong cuốn “Đương đại Khoa-học-học Đại từ điển” do Hướng Hồng, Đại học Thành Đô (thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) chủ biên 2, trong đó các tác giả đã đưa ra được một định nghĩa, mặc dù không hay lắm: “KHCB là các khoa học tự nhiên mang tính lý luận cơ bản”.
Trong các bài giảng cho ngành quản lý khoa học, chúng tôi đã mạnh dạn đưa định nghĩa “KHCB là những bộ môn khoa học chứa đựng những tri thức đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển hệ thống tri thức của các ngành khoa học khác” 3. Còn đối với khái niệm NCCB thì có rất nhiều tài liệu đề cập, nhưng tất cả đều lấy từ một nguồn UNESCO. Đó là tài liệu công bố năm 1980 có tên là Manuel pour les statistiques relatives aux activités scientifiques et techniques, trong đó đưa ra định nghĩa NCCB và các loại nghiên cứu khác 4. Các định nghĩa này được áp dụng cho mọi lĩnh vực nghiên cứu, không phân biệt NCCB trong khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật hoặc khoa học xã hội và nhân văn.
NCCB trong các khoa học
Trong phân loại nghiên cứu khoa học, UNESCO chia ra 3 loại: NCCB (fundamental research), nghiên cứu ứng dụng (NCưD, applied research) và triển khai thực nghiệm, gọi tắt là triển khai (experimental development). Tài liệu Manuel pour les statistiques relatives aux politique scientifiques et techniquescủa UNESCO lần lượt trình bày các định nghĩa như sau:
NCCB được định nghĩa là những nghiên cứu (lý thuyết hoặc thực nghiệm) nhằm tạo ra các tri thức mới về căn nguyên của các sự vật và hiện tượng, chưa có một ứng dụng đặc biệt nào ( La recherche fondamentale peut être définie comme étant tout travail expérimental ou théorique entrepris principalement afin d’acquérir de nouvelles connaissances sur fondement des phénomènes et des faits observables, sans qu’une application ou utilisation particulière spécifique soit recherchée). Tuy trong định nghĩa ghi là “chưa có một ứng dụng đặc biệt nào”, nhưng UNESCO cũng chia làm hai loại NCCB: NCCB thuần tuý (không xét đến ứng dụng thực tế) và NCCB định hướng (đã xét đến phương hướng ứng dụng).
NCƯD được UNESCO định nghĩa là những nghiên cứu nhằm tạo ra các tri thức mới, nhưng chủ yếu là nhằm vào một mục đích ( but, trả lời câu hỏi “nghiên cứu để làm cái gì ?”) hoặc mục tiêu ( objectif, trả lời câu hỏi “ nghiên cứu cái gì ?”) thực tế đặc biệt nào ( La recherche appliquée peut être définie comme étant toute recherche originale entreprise afin d’acquérir de nouvelles connaissances, mais elle a principalement un but ou objectif pratique spécifique) 5.
Còn Triển khai được định nghĩa là những nghiên cứu hoặc thực nghiệm nhằm tạo ra các vật liệu mới, sản phẩm mới, các hệ thống và dịch vụ mới nhằm hoàn thiện những sản phẩm vốn tồn tại ( Le développement expérimental peut être défini comme tout travail systématique exploitant les connaissances existantes acquise grâce à la recherche et/ou à expérience pratique et visant à produire de nouveaux matériaux, produits et dispositifs, à introduire de nouveaux procédés, systèmes et services, et améliorer substantiellement ceux qui sont déjà produits ou introduits). Trong phần ví dụ minh hoạ, UNESCO đã đưa ra khá nhiều ví dụ đủ để người đọc hình dung những tình huống cụ thể về NCCB, NCƯD và Triển khai 6. Chúng tôi xin trích dẫn một trong những ví dụ để tiện so sánh (bảng 1).
Như vậy, NCCB trong các khoa học là những nghiên cứu về bản chất của một sự vật; quá trình diễn biến các sự vật; bản chất các quy luật của tự nhiên, xã hội, con người… Chẳng hạn, phát hiện lý thuyết tiến hóa của Darwin, phát hiện cơ cấu giá trị của Marx (c+v+m) chính là những kết quả NCCB. NCCB của các nhà nghiên cứu thế hệ sau có thể bổ sung, sửa đổi hoặc, thậm chí, thay thế kết luận của các nhà nghiên cứu đi trước. Chẳng hạn, các lý thuyết hình thành vũ trụ trước đây bị thay thế bởi lý thuyết vụ nổ lớn; theo đó, quan điểm triết học về “thời gian là vô thuỷ vô chung, không có khởi đầu, không có kết thúc” bị thay thế bởi quan điểm “thời gian là có khởi đầu”; khi xuất hiện khái niệm “thông tin” đã dẫn tới sự khủng hoảng các phạm trù cơ bản của triết học: “Thông tin” là “vật chất” hay “ý thức”? Một trường phái cố ép “thông tin” vào phạm trù “vật chất”, còn trường phái khác cho rằng phải bổ sung “thông tin”, như một phạm trù thứ ba của triết học.
Những biện pháp thúc đẩy NCCB ở Việt Nam
Phải mạnh dạn nhìn nhận rằng, các NCCB trong các khoa học ở nước ta còn chưa phát triển. Theo quan điểm của UNESCO, bất kể trong lĩnh vực khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội, NCCB là làm rõ bản chất của sự vật. Khi đã làm rõ bản chất của sự vật, thì chắc chắn phải đưa ra những quan niệm không giống quan niệm truyền thống, thậm chí phá vỡ một tín điều cũ. Đơn giản như phát kiến “Trái đất quay quanh Mặt trời”, mà ngày nay ta thấy hiển nhiên, nhưng một thời đã làm điên đầu Giáo hội. Ngày nay không khác xưa là mấy, các nghiên cứu khoa học xã hội luôn phải đặt trong một khuôn khổ những định kiến, không được vượt khỏi một khung khổ nào đó. Đây là yếu tố cơ bản nhất dẫn đến ngăn chặn các ý tưởng NCCB phát triển.
Qua nhiều diễn đàn NCCB, chúng tôi xin nêu một số vấn đề sau:
Chuẩn mực của khoa học
Khuyến nghị 1: Chuẩn mực CUDOS đã được thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng khoa học thế giới. Cần quảng bá rộng rãi những chuẩn mực này trong cộng đồng khoa học Việt Nam, hơn nữa, cần làm cho chuẩn mực này trở nên một trong những thiết chế quan trọng trong chính sách khoa học ở Việt Nam. |
Các chuẩn mực trong khoa học, viết tắt là CUDOS, do Robert K. Merton, một nhà xã hội học người Mỹ đưa ra vào năm 1942. Đó là: (1) Tính cộng đồng(communalism), (2) tính phổ biến(universalism), (3) tính không vị lợi (disinterestedness), (4) tính độc đáo(originality) và (5) tính hoài nghi(skepticism) 7.
Trong các chuẩn mực này, chúng tôi muốn lưu ý chuẩn mực thứ (5) về tính hoài nghi. Các nhà khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật dễ dàng tiếp nhận các chuẩn mực này, còn trong nghiên cứu khoa học xã hội, ngay một số nhà khoa học cũng không dễ tiếp nhận. Một kết luận trong nghiên cứu tự nhiên có thể dễ dàng bị bác bỏ bởi một kết luận khác, nhưng một kết luận trong nghiên cứu xã hội rất khó bị bác bỏ, dù cho kết luận sau có đầy đủ luận cứ. Một kết luận trong nghiên cứu xã hội sẽ còn khó bác bỏ hơn, nếu nó đụng chạm tới những tín điều tôn giáo hoặc ý thức hệ hoặc các thế lực học phiệt (scholar-tyrant) nhân danh những cái đó. Một số nhà nghiên cứu có ý thức hoài nghi một kết luận khoa học trước đó, nhưng lại rất ngại khi nói đến sự hoài nghi đó. Một số người lo ngại bị quy chụp về quan điểm chính trị; số khác ngần ngại vì một hiện tượng mà các nhà xã hội học gọi là tư tưởng học phiệt trong khoa học. Chính đây là một luận điểm quan trọng góp phần giải phóng tư tưởng cho những NCCB về xã hội.
Chính sách đánh giá nghiên cứu khoa học
Hiện nay chúng ta đang có sự nhầm lẫn khi đánh giá các công trình khoa học. Đó là đánh giá giá trị khoa học theo “cấp hành chính” của công trình. Theo đó, đề tài “cấp nhà nước” được đánh giá cao nhất, đề tài “cấp cơ sở” bị đánh giá thấp nhất, trong khi đó, các đề tài NCCB lại thuộc đề tài cấp cơ sở. Chính đó là lý do khiến giới nghiên cứu chạy đôn, chạy đáo để tìm kiếm các đề tài “cấp” nhà nước, dẫn đến một tình huống thú vị, đã được nêu tại một hội thảo ở Hà Nội: Một số giáo sư quan niệm, giáo sư không làm đề tài cấp cơ sở mà chỉ làm đề tài cấp nhà nước; trong khi đó, đề tài cấp cơ sở là những đề tài NCCB. Đáng ra, chính giáo sư mới là những người có đủ điều kiện để làm các đề tài NCCB.
Chúng tôi đã nhiều lần nêu ý kiến rằng, đây là chuẩn mực đánh giá khoa học “độc đáo” nhất thế giới. Chuẩn mực này cũng đã được dùng trong nhiều trường hợp, như phong giáo sư và phó giáo sư, đánh giá thành tích khoa học để phong tặng các danh hiệu thi đua trong khoa học...
Khuyến nghị 2:Nhà nước cần thay đổi ngay quan niệm về “cấp đề tài”. Xóa bỏ ngay quan điểm đánh giá giá trị khoa học của đề tài theo “cấp hành chính”. Phải khẳng định, đây là một quan niệm đẳng cấp phong kiến trong khoa học. Nó dẫn tới những sai lệch chuẩn mực trong khoa học, dẫn đến xem nhẹ các đề tài NCCB, chạy theo thứ đẳng cấp hành chính của đề tài. |
Đề cao đạo đức khoa học, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Nạn đạo văn đã vô cùng nghiêm trọng trong giới khoa học Việt Nam. Là những người nghiên cứu về các vấn đề xã hội học trong khoa học (sociology of science), chúng tôi đã thu thập được khoảng vài chục bộ sưu tập gồm một nửa là chính phẩm và một nửa là các “tác phẩm” đạo văn dưới các hình thức khác nhau. Quan sát chân dung xã hội của họ, chúng tôi nhận diện được đủ các hạng người, bao gồm cả những người thuộc thế hệ còn rất trẻ, đến các giáo sư, phó giáo sư, viện trưởng, hiệu trưởng, chủ nhiệm khoa, thậm chí bộ trưởng và các loại “viện sỹ”. Họ có học hàm, học vị, chức sắc hành chính và chức sắc khoa học.
Biểu hiện đạo văn trong khoa học ở Việt Nam rất nhiều vẻ: Người Việt Nam đạo của nhau, người Việt Nam dịch sách rồi ghi tên mình là tác giả, thậm chí còn dịch sai. Tiếp đó, họ kê khai các đầu sách để nộp đơn xin “phong” học hàm. Tất nhiên, các hội đồng học hàm không có điều kiện thẩm định, hoặc còn thể hiện thái độ bao che khi đương sự bị tố giác.
Chúng tôi muốn nhấn mạnh, nạn đạo văn trong khoa học không những nghiêm trọng, mà nó còn được những giới đương quyền bao che, được các vị trong các hội đồng bênh vực. Điều này, giới khoa học đã kém hẳn giới văn nghệ sỹ. Giới văn nghệ sỹ hơn hẳn giới khoa học ở chỗ họ đã thẳng thắn hơn, dám vạch ra những kẻ đạo chích trong văn học, âm nhạc, nghệ thuật. Họ dám lên án các loại đạo chích, không loại trừ cả việc lên án các đạo chích là những người trong giới đương quyền. Cần phải nhấn mạnh rằng, nạn đạo văn trong khoa học đang làm băng hoại đạo đức và bôi nhọ danh dự của những người làm khoa học, và nhất là nó làm xấu đi môi trường tự do sáng tạo khoa học. Và như vậy, làm gì còn xuất hiện những người còn tâm huyết với NCCB, nhất là NCCB trong một lĩnh vực đầy chông gai, là khoa học xã hội (!).
Khuyến nghị 3:Nhà nước cần có những chế tài có hiệu lực để thẩm định các giá trị khoa học và bảo hộ quyền tác giả cho các nhà nghiên cứu, nghiêm trị các hành vi đạo chích và những kẻ đương quyền đứng ra bao che cho những người có các hành vi đạo chích. Cần tạo được dư luận xã hội chống lại mọi hành vi ăn cắp tác quyền. |
Đôi điều kết luận
Việt Nam đang đứng trước sự báo động về những hụt hẫng lực lượng những người NCCB trong cả khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội, mà việc bù đắp sự hụt hẫng đó đã ngày càng trở nên một vấn đề bức xúc của toàn xã hội.
Trong tất cả các nguyên nhân của sự hụt hẫng lực lượng NCCB trong khoa học xã hội và nhân văn, nguyên nhân quan trọng nhất nằm ở hệ vĩ mô. Chính điều này, đòi hỏi những thay đổi nghiêm túc của hệ vĩ mô, từ quan điểm đến thiết chế quản lý vĩ mô.
Mọi cố gắng, nỗ lực của cá nhân hoặc nhóm đều rất quan trọng, nhưng luôn bị chi phối bởi hệ vĩ mô. Ngay cả đạo đức cá nhân nhà khoa học, đang có nhiều yếu tố xói mòn (về mặt khoa học), thì việc tái-tạo-dựng nó cũng đòi hỏi sự chỉnh đốn lại các thiết chế vĩ mô.
___________________
1. International Association of Basic Sciences: “Declaration of basic sciences”, Upsala, 1995.
2. Hướng Hồng biên trước: Đương đại Khoa-học-học Đại từ điển, Thành Đô Khoa Kỹ Đại học Xuất bản xã), 1987.
3. Vũ Cao Đàm: Bài giảng Quản lý KH&CN, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2005.
4. UNESCO: Manuel pour les statistiques relatives aux activités scientifiques et techniques, Paris, 1980.
5. Nhấn mạnh bằng gạch dưới trong nguyên bản.
6. Cụm từ R&D, tiếng Pháp là “Recherche et Développement Expérimental”, tiếng Anh là “Research and Experimental Development”, gọi tắt là “Research and Development”, tiếng Nga làđược Tạ Quang Bửu đặt tiếng Việt là “Nghiên cứu và Triển khai”, chứ không gọi là “Nghiên cứu và Phát triển”. Thuật ngữ “Phát triển” được dùng cho cụm từ “Technology development” (Phát triển công nghệ), bao gồm “Extensive development of Technology, tức Diffusion of Technology” (mở rộng công nghệ) và “Intensive development of Technology, tức Uprading of Technology” (nâng cấp công nghệ).
7.http://en.wikipedia.org/wiki/Robert_K._Merton: Communalism - the common ownership of scientific discoveries, according to which scientists give up intellectual property rights in exchange for recognition and esteem; Universalism - according to which claims to truth are evaluated in terms of universal or impersonal criteria, and not on the basis of race, class, gender, religion, or nationality; Disinterestedness - according to which scientists are rewarded for acting in ways that outwardly appear to be selfless; Originality - scientific results have to be novel and add to our knowldege; Skepticism - all ideas must be tested and are subject to community scrutiny.
Nguồn: Tạp chí Hoạt động khoa học, số 7/2007, tr 18