Khai thác chất xám của người Việt ở nước ngoài - dễ hay khó ?
Thế nhưng sở dĩ xem cách dịch ấy chỉ là « chưa ổn », bởi trộm nghĩ rằng cái bộ não kia – và cùng với nó là những sản phẩm của bộ não - có thể đi theo, kể cả « trốn chạy », tuỳ thuộc người chủ sở hữu nó. Bởi vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khai thác chất xám của người Việt đang sống và làm việc, kể cả khi họ đã định cư ở nước ngoài.
Tiềm năng trí tuệ - thường được gọi là « chất xám » - của người Việt Nam ở nước ngoài hẳn là không nhỏ. Việc nổi lên một số chuyên gia gốc Việt ở nước ngoài là ví dụ. Điều này đã được nhiều người nói đến. Song để khai thác tối đa nguồn chất xám này, vì lợi ích của công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, thì vừa dễ vừa khó.
Việt kiều là một bộ phận của cộng đòng người Việt Nam . Đảng và Nhà nước đang giảm bớt sự phân biệt giữa Việt kiều với người dân trong nước.Người Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về quê hương: xu hướng hướng về cội nguồn ngày càng rõ nét trong những người đang sống xa Tổ quốc … Đó là những điều kiện thuận lợi cho cái “dễ” nói trên.
Ở cấp quốc gia, ta có Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài, ở cấp tỉnh thành, có các Ban liên lạc Việt kiều,…Hội liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài, một tổ chức xã hội rộng rãi, tự nguyện, đã được thành lập ngày 2-1-2002. Thông qua Chương trình TOKTEN – Chương trình chuyển giao trí thức thông qua kiều dân, hàng trăm người đăng ký sẵn sàng về phục vụ Tổ quốc.
Trong khuôn khổ luật pháp của nước sở tại, nhiều cộng đồng người Việt ở nước ngoài cũng đã lập ra các tổ chức của mình. Có tổ chức ở thành phố nhưViêng chăn (Lào), lại có tổ chức tập hợp cộng đồng người Việt trong cả nước như tại Campuchia. Không chỉ ở các nước láng giềng mà xa xôi hơn, ta biết chẳng hạn nhưHội người Việt Nam tại Liên bang Nga (ra đời n gày31/1/2004), Hôi Hoa sen(ra đời n gày 26/6/2004, tại Bruxelles) là tổ chức thống nhất các tổ chức Việt kiều ở Bỉ, với mục đích đoàn kết và tương trợ, góp phần vào quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước. Để làm cầu nối cho việc chuyển giao chất xám, những người tâm huyết còn lập ra các tổ chức gắn kết các nhà chuyên môn, như :Hiệp hội khoa học - kỹ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga,Hội các nhà tin học Việt Nam tại Pháp, Hội Hỗ trợ Thư viện và Giáo dục Việt Nam(LEAF-VN),...
Ngày càng có nhiều cuộc hội thảo thu hút sự tham gia và trao đổi giữa các nhà khoa học trong và ngoài nước, trong đó có các nhà chuyên gia hàng đầu là người Việt ở nước ngoài. Đóng góp của các nhà khoa học với quê hương thường cụ thể. Chẳng hạn như GS Đặng Quốc Kỳ, Giám đốc nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS) của Pháp, đã xa quê hơn nửa thế kỷ, nhưng nhiều năm gần đây, ông thường về Việt Nam trong chương trình hợp tác công nghệ thông tin,…
Đầu tháng 6/2008, chúng tôi có dịp đến thăm và làm việc với Ban lãnh đạo Hội Người Việt Nam tại Pháp.Các ông: Chủ tịch Võ Sĩ Đàn, Tổng thư ký Bùi Thanh Tùng, bà Thérèse Phan-Nguyễn trong Ban Chủ tịch, cùng một số hội viên đã vui vẻ tiếp đón chúng tôi tại trụ sở của Hội.
Ra đời từ năm 1976, đây là một tổ chức có truyền thống hoạt động với mục đích đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng kiều bào tại Pháp, giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam cho con em Việt kiều, và tiến hành các hoạt động hỗ trợ đồng bào trong nước như quyên góp ủng hộ lũ lụt, xóa cầu khỉ ở miền Tây Nam Bộ, ủng hộ nạn nhân chất độc da cam/dioxin, trao đổi học sinh để nâng cao tiếng Việt cho con em Việt kiều và tiếng Pháp cho trong nước,…
Song, điều mà chúng tôi quan tâm đặc biệt là những hoạt động của Hội trong việc vận động tri thức Việt kiều đóng góp chất xám cho đất nước, thông qua những hoạt động cụ thể. Các hôi viện thể hiên rõ mong muốn của mình là được phối hợp với các tổ chức hữu nghị và hợp tác, trong việc chuyển giao kỹ thuật, hợp tác giáo dục, văn hóa - nghệ thuật,…
Bên cạnh những thuận lợi như trên, để tranh thủ - hay đúng hơn là khai thác cho được đến mức tối đa tiềm năng chất xám của người Việt ở nước ngoài, chúng tôi nghĩ cũng nên thẳng thắn nhìn vào những cái “khó” của công việc này.
Trước hết, phải thừa nhận rằng giới trí thức thường có những tư chất riêng - nếu không muốn nói là “khuyết tật”, trong đó có việc đôi khi tự đánh giá mình quá cao - nhất là trong những lĩnh vực chuyên sâu thì việc xác định giá trị đích thực của “chất xám” không phải lúc nào cũng dễ dàng, trong khi lại rất dễ mếch lòng khi bị coi thường… chứ chưa nói đến việc bị xúc phạm, có thể chỉ là ở một câu nói, dù là vô tình của người cùng đối thoại.
Hãy khơi dậy trong lòng trí thức sống xa Tổ quốc hai tiếng “Việt Nam ” thiêng liêng. Và ở đây vấn đề địa danh, hay đúng hơn, tính lịch sử của địa danh cần được tính đến. Nếu như những người xa quê gốc ở miền Bắc xúc động khi nghe nói đến “Thăng Long – Hà Nội”, thì cảm xúc lại dâng trào ở người miền Trung khi ai đó nhắc đến “xứ Huế mộng mơ”... Cũng vậy, những địa danh đã mang nhiều dấu ấn lịch sử như Sài Gòn, Chợ Lớn, Bến Thành,…thì lại đã gắn với tâm tư, tình cảm biết bao người,… Xin đừng coi nhẹ vấn đề sử dụng địa danh, bởi vì vượt khỏi giá trị ngôn ngữ đích thực của nó, chính địa danh có thể gắn kết cả một cộng đồng người.
Chân tình và cởi mở là hết sức cần thiết. Do hoàn cảnh lịch sử, sự rời bỏ quê hương có thể khiến cho một số người luôn mang nặng trong mình nỗi ám ánh “mất mát” nào đó trong quá khứ, không hẳn dễ quên…
Nên tránh lối tư duy áp đặt và/rồi quy chụp. Cách tốt nhất là hãy đừng buộc tất cả mọi người, ngay một lúc, phải gạt bỏ mọi bất đồng, kể cả bất đồng chính kiến … Người trí thức không dễ chấp nhận lối phủ nhận đơn thuần, mà chỉ có thể thuyết phục bằng lý giải hợp lý, hợp tình. Hãy tranh luận trên tinh thần khoa học thât sự - chỉ ra được đúng/sai - bởi “nói cóphải củ cải mớinghe”. Trong những trường hợp đã từng có sai lầm, thì cần có lời hoặc cách xin lỗi thích hợp.
Trộm nghĩ, đó cũng là một trong những cách hữu hiệu nhằm gác lại sự khác biệt, thậm chí là hận thù, cùng nhìn về tương lai, và đặc biệt là sẵn sàng đón nhận mọi đầu tư chất xám, cùng mục đích chung là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Thêm nữa, đúng như tiêu đề một cuốn sách của Trần Trọng Đăng Đàn thì « Người Việt Nam ở nước ngơài không chỉ có « Việt kiều » (H., Nxb CTQG, 2005. 229 tr.). Đó còn là những người đang sống và làm việc ở nước ngoài – trong số đó có các chuyên gia và sinh viên, nghiên cứu sinh du học – đang và sẽ trở thành các nhà khoa học.
Chúng tôi may mắn có buổi làm việc với Hội Sinh viên Việt Nam tại Pháp(Chủ tịch Nguyễn Thành Trung và một số thành viên Ban chấp hành). Tuy mới được thành lập vào năm 2004, song Hội đã thu hút tới gần 5000 hội viên là du học sinh Việt Nam trên toàn nước Pháp. Ban chấp hành Tổng hội gồm 21 thành viên, đại diện cho 12 Chi hội địa phương. Ngoài nhiệm vụ hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và đời sống, đáng chú ý là Hội đã tiến hành hội thảo về một số vấn đề khoa học - kỹ thuật mà Việt Nam đang quan tâm, như Điện nguyên tử, Hệ thống tàu điện ngầm,… với sự tham gia của đông đảo sinh viên cùng chuyên ngành và các giáo sư, nhà trí thức hàng đầu của Pháp. Không chút do dự, thế hệ trí thức trẻ còn bày tỏ mong muốn của mình là sẽ hình thành một Mạng lưới chuyên gia khoa học người Việt ở Pháp(Réseau d’experts scientifiques vietnamiens en France ), sẵn sàng hướng về quê hương.
Thể hiện rõ trong đường lối và chính sách rộng mở, nhất là từ khi đất nước bước vào « đổi mới », Đảng và Nhà nước luôn coi trọng vốn quý này, song từ chỗ xem trọng đến khai thác cho được nguồn tiềm năng to lớn và quý báu này thì hẳn không phải là cứ nghĩ là làm được.
Chúng ta vui mừng không phải chỉ dừng ở số người về thăm Tổ quốc ngày một tăng lên mà quan trọng hơn, và cần thiết hơn là mong sao – hay đúng hơn là làm thế nào để ngày càng có nhiều chuyên gia sẵn sàng mang dòng « chất xám » về đóng góp xây dựng quê hương. Không ít các chuyên gia gốc Việt đã lôi kéo được các đồng nghiệp nước bạn cùng thực hiện ý định với mình. Mong sao mọi cái khó cũng dễ dàng vượt qua để nguyện vọng chính đáng của của các bác, các anh, các chị,… trở thành hiện thực.








