Kết quả bước đầu trong việc trồng cỏ vetiver tại bãi thải Chính Bắc Công ty cổ phần than núi Béo – TKV
Cỏ Vetiver có 11 loài nhưng chỉ có 2 loài được sử dụng trong hệ thống cỏ Vetiver đó là: V. Zizannioides và V. Nemoralis. Trong khi loại V. Zizannioides có mặt hầu hết ở các vùng nhiệt đới thì loại V. Nemoralis chỉ có mặt ở vùng Đông Nam Á. Ở Việt Nam, cỏ Vetiver có tên gọi là cỏ Hương Bài hay Hương Lau là loại V. Zizannioides được trồng nhiều ở vùng Nghệ An và Thái Bình.
Nhìn chung, cỏ Vetiver giống như một bụi cỏ sả to, mọc thẳng đứng, thân xếp vào nhau thành nhóm vững chắc có thể cao tới 3m. Chồi ngọn thì nằm dưới lớp đất mặn vài cm, đây là các mô tế bào đang phát triển. Đặc điểm nổi bật của cỏ Vetiver là có bộ rễ xốp, dày đặc, chắc mạnh, rễ cỏ có thể ăn sâu xuống đất từ 3 - 5m, khả năng chịu lực của bộ rễ có thể bằng 1/6 khả năng chịu lực của bê tông (75 Mpa). Chính nhờ đặc tính đó nên cỏ có khả năng ngăn cản sự xói mòn, dịch chuyển vật chất trên mặt đất, chống trôi trượt. Rễ cỏ Vetiver đào sâu vào lòng đất, không lung lay trước mưa bão, không bò lan và thân rễ đan xéo nhau tạo thành hàng rào chắn giúp giảm và phân tán năng lượng dòng chảy rất hiệu quả.
Ngoài tác dụng cơ bản nói trên, cỏ Vetiver còn được sử dụng vào một số mục đích khác nhau như: Chiết xuất tinh dầu nước hoa, làm hàng mỹ nghệ, thức ăn gia súc… cải tạo đất và nước nhờ khả năng hấp thụ độc tố của nó.
Cỏ Vetiver có khả năng sống trong nhiều điều kiện địa hình, khí hậu khác nhau, thích nghi nhanh với sự thay đổi của môi trường như:
- Chịu hạn trong nhiều tháng, sống trong môi trường ngập lụt đến 45 ngày và trong biên độ nhiệt độ từ -15 đến 60 độ C.
- Phát triển cả trong vùng đầm lầy đến núi cao 2600m so với mặt nước biển, nơi có lượng nước mưa trung bình ngăm cực thấp: 300 mm hoặc rất cao: 3000 mm.
- Mọc và phát triển lại rất nhanh sau khi bị hạn hán, sương muối, nước mặt, các hoá chất.
- Chịu được ngưỡng biến động cao của độ pH trong đất.
- Sống và phát triển tốt trong đất nghèo dinh dưỡng, nhiễm phèn, ngập mặn, đất bị ô nhiễm kim loại nặng: Cr, Cu, Pb, Hg, Ni, Si…
- Tinh dầu trong rễ có mùi thơm khoẻ không hấp dẫn đối với các loài gặm nhấm, côn trùng có hại, ngăn chặn chuột làm tổ, lá có cạnh sắc làm cho rắn không đến gần được.
- Không chịu được điều kiện bóng râm.
Loại cỏ V. Zizannioides được trồng phổ biến có đặc điểm không tạo hạt, nhân giống chủ yếu bằng phương pháp vô tính nên không có khả năng phát tán lây lan như các loại cỏ dại khác.
Trên thế giới, cỏ Vetiver được trồng rộng rãi để chống xói mòn đất. Tại Nam Ấn Độ gần thành phố Mysora, nông dân đã trồng cỏ Vetiveria Nigratana làm băng cây xanh từ khoảng 200 năm nay, Nigeria cũng đã trồng cỏ Vetiver từ hàng thế kỷ nay. Từ giữa thập niên 80, công nghệ cỏ Vetiver đã được giới thiệu đến hơn 100 nước và hiện nay có hàng trăm ngàn hecta đất nước trồng cỏ Vetiver ở 147 nước trong đó có 106 nước sử dụng với mục đích bảo vệ đất và nước.
![]() |
Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) triển khai trồng cỏ Vetiver từ tháng 10 năm 2007 tại bãi thải LV +14 Công ty Than Hồng Thái Núi Béo – TKV. Đây là giai đoạn trồng thử nghiệm chủ yếu áp dụng kinh nghiệm khi trồng cỏ trên sườn ta luy đường Hồ Chí Minh, chưa có nghiên cứu đầy đủ về các điều kiện cụ thể của bãi thải (thổ nhưỡng, khí hậu…) để có quy trình trồng cỏ thích hợp vì vậy kết quả đạt được còn hạn chế.
2. Trồng cỏ Vetiver tại bãi thải Chính Bắc - mỏ than Núi Béo
Hạng mục trồng cỏ Vetiver thuộc Dự án: cải tạo và phục hồi môi trường bãi thải Chính Bắc giai đoạn I - mỏ than Núi Béo. Theo đó: sau khi hạ độ cao bãi thải từ mức +271 xuống mức +256 cắt các phân tầng để ổn định bãi thải sẽ tiến hành trồng cỏ trên sườn phía Tây các tầng +256, +245, +230, +220 và xung quanh bãi thải mức +215. Tổng diện tích trồng cỏ theo dự án: 10, 21 hecta.
Cỏ Vetiver ở bãi thải Chính Bắc được trồng theo hàng, dọc theo các đường đồng mức của sườn tầng (hoặc đường song song với mép tầng), khoảng cách giữa các hàng 1,8m đến 2m, khoảng cách giữa các nhóm trong hàng 0,15 - 0,2m.
Đến thời điểm báo cáo, Công ty đã trồng được 6,8 hecta tại các sườn tầng +256, +245, +230 và bãi thải +215. Riêng sườn tầng +220 chưa tiến hành trồng được do bãi thải mức +200 đang hoạt động.
2.1 Quy trình trồng cỏ Vetiver tại bãi thải Chính Bắc
a. Giai đoạn chuẩn bị
- Ổn định sườn bãi thải: Đảm bảo chiều cao tầng bãi ≤ 30m, góc dốc ≥ 35 độ (đối với bãi thải Chính Bắc thường cao hơn 15 - 20m, dốc 30 độ), làm hệ thống thoát nước không để nước tập trung xối xuống sườn tầng, với bãi thải Chính Bắc, tiến hành đắp các đê chắn rộng 12m cao 0,5m sát mép tầng, làm mương thoát nước sát chân tầng phía trên để thoát nước cho toàn mặt tầng.
- Bổ sung đất màu vào sườn tầng đặc biệt những khu vực có nhiều đá to để đảm bảo tỷ lệ đất đạt ≥ 50%.
- Ươm cây (thực chất là quá trình nhân giống vô tính): Cỏ Vetiver trồng tại bãi thải Chính Bắc được ươm theo phương pháp nhân giống trong túi nhựa, đây là một trong 3 cách nhân giống cỏ Vetiver (tách chồi trồng trực tiếp, nhân giống trong túi nhựa và vi nhân giống bằng phương pháp nhân chồi trong phòng nuôi cấy mô).
![]() |
Các bầu giống được xếp sát nhau thành luống được tưới nước 2 lần/ ngày, nếu thời tiết khô hanh vào 7h và 17h. Nếu thời tiết râm mát, tưới 1 lần/ ngày vào 17h. Sử dụng vòi hoa sen để tưới.
Sau khoảng 45 ngày, cây phát triển tốt; cao khoảng 30cm, rễ dài 5cm đẻ 3 – 5 nhánh có thể đem trồng.
b. Trồng cỏ
- Trên sườn tầng, dọc theo các đường đồng mức tiến hành đánh các rạch có kích thước rộng x dài: 20 x 20cm, khoảng cách giữa 2 rạch: 1,8m đến 2m. Đổ đầy Giá thể phân vi sinh (GT 05) vào rạch.
- Cỏ Vetiver được cắt ngọn để lại chiều dài khoảng 20cm, tháo bầu đem trồng và rạch với khoảng cách giữa các nhóm là 0,15 – 0,2m lấp đất chặt tránh lay rễ.
c. Chăm sóc cỏ
Trong tuần đầu sau khi trồng nếu thời tiết khô hanh, tưới nước cho cỏ như chế độ khi ươm cây. Khi cỏ phát triển được 6 tháng tiến hành cắt ngọn chỉ để lại chiều cao khoảng 20cm để phát triển rễ. Tiến hành trồng dặm vào các vị trí cỏ bị chết.
2.2 Tình hình phát triển của cỏ Vetiver tại bãi thải Chính Bắc
Cỏ Vetiver được trồng tại bãi thải Chính Bắc thàn 3 đợt:
- Đợt 1: Tháng 10 năm 2007, trồng thử nghiệm tại sườn tầng +256, diện tích khoảng 2000 m2.
- Đợt 2: Tháng 3 năm 2008, trồng đại trà tại sườn các tầng +256, +245, +230 diện tích khoảng gần 6 hecta.
- Đợt 3: Tháng 6 năm 2008, trồng tại xung quanh bãi thải +215 diện tích khoảng gần 1 hecta.
Cỏ Veliver trên bãi thải Chính Bắc phát triển tương đối tốt, đặc biệt trong thời kỳ đầu khi thời tiết thuận lợi, có mưa nhất là những khu vực có tỷ lệ đất đạt ≥ 50% sau 9 tháng chiều cao có thể đạt 1m đến 1,5m, chiều dài của rễ có thể đạt gần 80cm, đường kính rễ 28cm. Tỉ lệ sống đạt khoảng 85% đã có hoa và đẻ nhánh, ổn định tầng bãi thải và cải tạo cảnh quan khu vực. Các khu vực cỏ bị chết hoặc phát triển chậm, đẻ ít nhánh chủ yếu là do thiếu đất thường tỷ lệ đất chỉ đạt 20 – 30% có nhiều đá to, trôi trượt tầng… Khu vực phủ thảm xơ dừa để chống trôi trượt, cỏ thường bị chết nguyên nhân chủ yếu do không có đất, và có thể do việc lên men phân huỷ xơ dừa phát sinh nhiệt và do màu thẫm của thảm xơ dừa làm hấp thụ nhiệt mạnh hơn các vị trí khác.
Về mùa khô, thời tiết khô hạn, rét cỏ phát triển chậm, úa vàng, lác đác một vài vị trí cỏ bị chết.
Khi thời tiết thuận lợi trở lại Công ty sẽ tiến hành trồng dặm bổ sung vào các vị trí cỏ bị chết.
3. Một số kinh nghiệm khi ỉtồng cỏ Vetiver tại bãi thải Chính Bắc - Công ty Cổ phần than Núi Béo - TKV
1. Phải ổn định bãi thải một cách chắc chắn: Đây là việc rất quan trọng, thực tế phải sau ít nhất 1 năm cỏ mới có thể có rễ đủ dài để giữ đất, cần phải có nghiên cứu đầy đủ để quyết định chiều cao tầng, góc dốc sườn tầng một cách phù hợp đối với từng loại đất đá thải. Vấn đề thoát nước trên mặt tầng cũng cần được quan tâm đặc biệt, nhất thiết không để nước xối tập trung xuống sườn tầng. Có thể đắp đê với kích thước rộng 10m, cao 0,5m đến 0,8m sát mép tầng để ngăn nước và làm mương thoát nước cho mặt tầng bãi thải.
2. Phải tiến hành cải tạo đất đá sườn tầng, loại bỏ đá to, bổ sung thêm đất, đảm bảo tỷ lệ đất phải đạt ≥50%. Đây là vấn đề rất khó khăn vì lượng đất mầu để bổ sung cần rất lớp trong khi hầu hết các mỏ khi bóc lớp đất phủ Đệ tứ đã đổ đi hết vì vậy cần thiết phải bổ sung riêng và lưu giữ loại đất này để phục vụ mục đích trồng cây cải tạo phục hồi môi trường.
3. Thời điểm trồng cỏ thích hợp nhất là trước mùa mưa 1 tháng để cây sinh trưởng tốt, tăng tỷ lệ sống giảm chi phí tưới nước, tốt nhất vào khoảng tháng 3 hoặc tháng 4 dương lịch.
4. Chăm sóc: về mùa khô cần tăng cường tưới nước cho cỏ, thông thường từ 2 - 3 ngày tưới 1 lần lượng nước ít nhất 100ml/m2. Kiểm tra trồng dặm thay thế các cây bị chết hoặc phát triển kém để đảm bảo tỷ lệ cây sống đạt trên 95% so với thiết kế. Bón thúc 3 lần phân NPK 16 - 16 - 8 cho cỏ vào các tháng 2, 4, 6 sau khi trồng, mỗi lần 5 - 7 kg/100m2.
5. Về mùa khô, cỏ thường úa vàng, vì vậy tác dụng phủ xanh bị hạn chế, có thể trồng xen kẽ giữa các hàng cỏ cây keo lá tràm hoặc các loại cây có tác dụng phủ xanh khác sau khi cỏ đã phát triển và sườn tầng ổn định.
6. Nhất thiết phải có các nghiên cứu đầy đủ về thổ nhưỡng, điều kiện khí hậu, thời tiết của từng vùng để quyết định quy trình trồng cỏ Vetiver cho phù hợp.
Việc trồng cỏ Vetiver ở bãi thải Chính Bắc - Công ty Cổ phần Than Núi Béo - TKV đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng vẫn đang trong thời gian thử nghiệm, thời gian trồng ngắn (đa số mới trồng được 9 tháng) vì vậy cần tiếp tục theo dõi để hoàn hiện quy trình trồng cỏ và có đánh giá chi tiết, khách quan trước khi phổ cập trồng cỏ Vetiver toàn Tập đàon trong việc cải tạo phục hồi môi trường mỏ.