Huyết khối tĩnh mạch sâu
Khi bạn bị thương hay đứt tay, để ngăn ngừa máu chảy hoài không cầm, gây mất máu và tử vong, cơ thể có cơ chế đông máu gồm 12 yếu tố để hình thành cục máu đông, để bít chỗ mạch máu bị đứt, máu không chảy nữa. Lúc này cục máu đông giữ vai trò tích cực: cứu mạng bệnh nhân. Khi vết thương lành, cục máu đông sẽ dần dần tiêu đi.
Nếu một người bị rối loại cơ chế đông máu, khi bị thương không thành lập cục máu đông được, máu chảy hoài không cầm được, có thể tử vong, gọi là bệnh ưa chảy máu hay bệnh máu không đông.
Ngược lại, có những trường hợp không bị đứt mạch máu, nhưng trong long mạch cũng hình thành cục máu đông.Trường hợp này cục máu động gây ra những hậu quả không mong muốn trên người bệnh.
Tại sao hình thành được cục máu đông? Cục máu đông ảnh hưởng đến sức khoẻ ra sao? Có nguy hiểm không? Phần tiếp theo sẽ trả lời các câu hỏi trên.
Những bệnh nhân do bệnh nặng phải nằm quá lâu (chiến sĩ sau bị thương gãy xương; phụ nữ cao tuổi sau phẫu thuật, nhất là phẫu thuật thay khớp háng; sản phụ sau khi sinh mổ…) đều có nguy cơ bị huyết khối tĩnh mạch sâu, tức là có sự hình thành một cục máu đông, trong lòng tĩnh mạch. Ngoài ra, còn một số bệnh lý khác như: suy tim, giãn tĩnh mạch chân, suy tĩnh mạch, dị dạng tĩnh mạch, bệnh gây suy kiệt (ung thư), bệnh về máu (đa hồng cầu), tình trạng mất nước nặng, sốc, các chứng viêm tắc mạch… cũng gây huyết khối trong lòng tĩnh mạch.
Nguyên nhân là do tốc độ tuần hoàn máu bị chậm lại, tạo thuận lợi cho tiểu cầu bám dính vào thành mạch và có sự hiện diện của thromboplastin (yếu tố đông máu) đồng thời quá trình tiêu sợi fibrin bị suy yếu.
Quá trình tạo cục máu đông thường xảy ra trong lòng tĩnh mạch sâu ở cẳng chân (vì lòng tĩnh mạch khá lớn và xa tim nên vận tốc máu chậm hơn tĩnh mạch nơi khác), đầu tiên là tiểu cầu kết tụ lại tạo thành một cục máu đông trắng, dính vào thành tĩnh mạch; tiếp đó, các hồng cầu, bạch cầu và sợi fibrin bám vào tạo thành một cục máu đông đỏ, phần này không dính vào thành mạch. Vì thế, cục máu đông có thể tách rời khỏi thành mạch và di chuyển đến nơi khác gây tai biến, thí dụ cục máu đông đến phổi, gây nghẽn mạch phổi đến não gây tắc mạch máu não, đến tim gây tắc mạch vành… rất nguy hiểm.
Khi mới bắt đầu tạo thành cục máu đông, bệnh nhân cảm thấy nặng nền từ cẳng chân trở xuống, dần dần bắp thịt co cứng và đau, đi đứng không vững. Quan sát chân ở tư thế buông thõng thấy da hơi xanh tím và giãn các tĩnh mạch nông. Bệnh nhân cảm thấy đau khi bị ấn vào bắp chân, gót chân, gan bàn chân. Đôi khi đau ở bắp chân khi bị gấp ngược bàn chân, gọi là dấu hiệu Homans. Khi sờ, cảm thấy bên bắp chân bị huyết khối nóng hơn bên không bị. Nếu đo, sẽ thấy chu vi bắp chân bị huyết khối to hơn bên kia độ 1 - 2 cm. Về tổng trạng:bệnh nhân có cảm giác khó ở và lo âu, sốt nhẹ, mạch tăng dần và tăng nhiều hơn so với mức tăng do sốt.
Khi huyết khối gây nghẽn hoàn toàn lòng tĩnh mạch, cẳng chân phù cứng, không giữ vết ấn lõm, da trở nên trắng nhợt, căng bóng, nổi rõ ràng mạng lưới tĩnh mạch.
Trên lâm sàn còn có nhiều hình thái khác như:
- Không có triệu chứngvì bị che lấp bởi bệnh cảnh của căn bệnh nguyên nhân đã khiến bệnh nhân phải nằm tại giường. Đôi khi, đến khi có biến chứng nghẽn mạch ở một cơ quan khác (phổi, tim, não…), thì mới phát hiện, bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch.
- Huyết khối ở tĩnh mạch chậu - đùi:bệnh nhân phù toàn bộ phần vùng đùi - bắp chân và giãn tĩnh mạch lan toả, đau tự phát hoặc đau khi thăm khám. Dấu hiệu toàn thân rõ nét: tinh thần không yên, lo lắng sốt nhẹ và mạch tăng nhiều. Thường xảy ra sau những can thiệp ngoại khoa ở vùng chậu, đường niệu sinh dục, thay khớp háng.
- Huyết khối vùng kheo chân:đau tự phát hay do gây ra ở hõm kheo, phù bắp chân. Dấu hiệu toàn thân không rõ.
Trước một bệnh nhân nằm lâu, có biểu hiện đau tê, nặng ở bắp chân, sốt nhẹ và mạch nhanh, cần phải nghĩ đến huyết khối mạch vàxác định bệnh bằng các xét nghiệm sau:
- Siêu âm ký Doppler: ghi biến đổi thể tích, để phát hiện huyết khối trong những tĩnh mạch lớn.
- Chụp X - quang tĩnh mạch để xác định vị trí và mức độ của huyết khối. Tuy nhiên chi phí cao và cần nhiều thời gian, sau chụp có thể gây ra những cơn đau kịch phát ở cẳng chân.
- Thử nghiệm với fibrinogen đánh dấu để chứng minh huyết khối đang trong quá trình hình thành, kể cả huyết khối ở tĩnh mạch nhỏ.
- Chụp X - quang phổi, X - quang động mạch phổi để xem có nghẽn mạch phổi không.
Điều trị huyết khối có hai cách:
- Ngoại khoa: phẫu thuật lấy bỏ cục huyết khối, được thực hiện khi huyết khối vùng chậu - đùi, kèm theo nguy cơ hoại thư, được kết hợp với liệu pháp tiêu fibrin tại chỗ.
- Nội khoa: dùng thuốc làm tan cục máu đông, heparin tiêm tĩnh mạch kéo dài 1 - 2 tuần và sau đó dùng thuốc chống đông máu dạng uống, thuốc chống kết tụ tiểu cầu trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Thuốc tiêu sợi fibrin gây biến chứng chảy máu nhiều hơn heparin và có thể làm tăng nguy cơ nghẽn mạch phổi khi cục máu đông không tiêu hoàn toàn. Trong 5 - 7 ngày đầu, bệnh nhân phải nằm bất động tại giường dùng gối kê cho cẳng chân cao lên.
Được điều trị đúng, huyết khối tĩnh mạch sâu sẽ khỏi trong vòng 4 - 6 tuần. Nguy cơ nghẽn mạch phổi và tử vong vào khoảng 5 - 6%. Một biến chứng thường gặp sau khi bị huyết khối tĩnh mạch sâu (nhất là tĩnh mạch chậu - đùi) là hội chứng hậu viêm tĩnh mạch, gồm có: nặng nề và mỏi yếu cẳng chân, phù khó điều trị khỏi, hình thành giãn tĩnh mạch, teo da, loét giãn tĩnh mạch.
Phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu ở những bệnh nhân nằm lâu bằng cách tập vận động ngay trong thời kỳ hậu phẫu hay khi bệnh thuyên giảm, bệnh nhân phải có ý thức chủ động trong các sinh hoạt hàng ngày để dần dần trở về cuộc sống và làm việc bình thường, tránh các biến chứng do ít vận động.