Hợp chất trong rau củ chống ung thư
Nhà dược học Shivendra Singh thuộc trường Đại học Pittsburgh và các cộng sự của minh đã cho thấy một loại hóa chất được sinh ra khi các loại rau họ cải – như súp lơ, cây bông cải xanh, cải bắp - được nhai sẽ có thể kiểm soát được các khối u tuyến tiền liệt của người được cấy ghép trên chuột. Chất Phenethyl-isothiocyanate, hay PEITC làm cho các tế bào ung thư tuyến tiền liệt tự diệt theo một quá trình gọi là chết tế bào (apoptosis). Vào cuối chu kỳ điều trị kéo dài 31 ngày, khối u của những con chuột được điều trị nhỏ đi hai lần so với những con chuột không được điều trị.
Nghiên cứu sinh, nhà dược học tại trường Đại học Pittsburgh Sanjay Srivastava và các cộng sự đã tìm thấy chất capsaicin - chất hóa học khiến ớt có vị cay – kích thích quá trình chết tế bào ở chuột được cấy ung thư tuyến tụy của người, một căn bệnh gây chết người thường gặp. Những con chuột được điều trị có kích thước khối u nhỏ bằng 1 nửa kích thước khối u của những con chuột không được điều trị. Srivastava phát biểu rằng chất capsaicin làm chết các tế bào ung thư và làm giảm đáng kể kích thước của khối u.
Bác sĩ sản khoa J. Rebecca Liu thuộc trường Đại học Michigan và các đồng nghiệp của mình cho biết bột gừng diệt được các tế bào ung thư buồng trứng trong ống nghiệm bằng cách khởi động quá trình chết tế bào và kích thích các tế bào tự tiêu diệt, một hiện tượng được gọi là hiện tượng tự huỷ. Bác sĩ Liu giải thích rằng “Hầu hết những bệnh nhân bị ung thư buồng trứng sau khi được điều trị lại tái mắc bệnh, cuối cùng cơ thể sẽ kháng lại liệu pháp hóa trị liệu thông thường, điều này gắn liền với việc kháng lại quá trình chết tế bào. Nếu gừng có thể làm cho các tế bào chết theo cơ chế tự huỷ cộng với quá trình chết tế bào, nó có thể vượt qua khả năng đề kháng của các tế bào ung thư”. Bà cho biết thêm rằng các bệnh nhân đang sử dụng các sản phẩm tự nhiên thay thế hoặc bổ trợ cho phương pháp hoá trị liệu mà hiện tại chưa có kết luận rằng chúng có hiệu quả hay không và cơ chế hoạt động của chúng như thế nào. Những phát hiện mới này có thể là những nhân tố có lợi cho những thay đổi trong tương lai.
Nguồn: Scientific American, 4/2006







