Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3: Nhận diện Việt Nam qua các nghiên cứu liên ngành
BBT- Từ 5 đến 7/12, Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3 mang chủ đề "Việt Nam hội nhập và phát triển" chính thức khai cuộc sau một thời gian dài chuẩn bị kỹ lưỡng. Phạm vi bàn thảo quá rộng, có tới 18 tiểu ban với gần 900 báo cáo khoa học sẽ rất khó cho những ai quan tâm theo dõi. Để có cái nhìn tổng quan và lĩnh hội được những điểm mới so với 2 cuộc hội thảo trước đây, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn GS Nguyễn Quang Ngọc, người đã tham gia suốt quá trình chuẩn bị cho cuộc hội thảo lần này.
Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ II tổ chức tại TPHCM (7/2004) kết thúc với kiến nghị thành lập Hội đồng quốc tế VN học. Kiến nghị đó có thành hiện thực không? Và hội thảo lần này sẽ có những thay đổi lớn gì?
- Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất được tổ chức vào các ngày 15, 16, 17 tháng 7 năm 1998, được coi như đại hội đầu tiên của các nhà Việt Nam học toàn thế giới, với 261 báo cáo của các tác giả trong nước và 176 báo cáo của các tác giả quốc tế. Đến hội thảo lần 2 thì quy mô nhỏ hơn, số báo cáo của các học giả trong nước là 212 và các học giả quốc tế là 104, nhưng nét mới của cuộc Hội thảo này là các báo cáo đã sớm được định hướng theo chủ đề thống nhất và một số tiểu ban đã bắt đầu nhấn mạnh yêu cầu liên ngành, có tiểu ban đã đi sâu vào lĩnh vực khoa học mới mẻ ở Việt Nam là Khu vực học.
Tổng kết hội thảo, PGS.TS Trần Đức Cường, Trưởng ban Tổ chức Hội thảo đã chính thức đề nghị thành lập Hội đồng Việt Nam học quốc tế và được hội nghị nhiệt liệt hoan nghênh. Tuy nhiên sau ngày Hội thảo kết thúc, công việc dường như không được bàn thảo lại và nhất là không có sự phân công đầy đủ và rõ ràng trách nhiệm cho cá nhân hay tập thể tổ chức thực hiện, thành thử cho đến nay câu chuyện thành lập Hội đồng Việt Nam học quốc tế vẫn còn nguyên là một ý tưởng tốt đẹp.
Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba, theo tuần tự phân công, ĐHQG Hà Nội là cơ quan chủ trì tổ chức và Viện KHXH Việt Nam là cơ quan phối hợp. Hội thảo lần này chọn "Việt Nam hội nhập và phát triển" là chủ đề chính. Chủ đề này không chỉ được các học giả Việt Nam , mà rất nhiều học giả quốc tế cũng đặc biệt quan tâm. Trên cơ sở chủ đề chính đã được xác định, rút kinh nghiệm của hai lần Hội thảo trước, tranh thủ thêm ý kiến tư vấn của các chuyên gia trong nước và quốc tế, chúng tôi chia Hội thảo ra thành 18 tiểu ban và mời các chuyên gia hàng đầu thuộc các lĩnh vực này phụ trách.
Trưởng tiểu ban dựa theo chủ đề và các yêu cầu của hội thảo, tích cực và chủ động trong các hoạt động chuyên môn, từ việc tiếp nhận và đánh giá các báo cáo gửi đến cho đến việc xác định những nội dung chuyên môn không thể thiếu, những chuyên gia không thể vắng mặt trong hội thảo để tổ chức tiểu ban vừa tập hợp kết quả nghiên cứu trên diện rộng, vừa triển khai nghiên cứu chuyên sâu. Có thể nói mỗi tiểu ban lần này được tổ chức gần như một Hội thảo khoa học về các lĩnh vực chuyên môn của Việt Nam học, khai thác hiệu quả những thành tựu của khoa học chuyên ngành và hướng vào yêu cầu nhận diện đất nước và con người Việt Nam trong một hệ thống một tổng thể.
Triển khai tổ chức Hội thảo theo tinh thần này, chúng tôi thấy thật hiếm có một hội thảo khoa học nào lại có đông đảo các nhà khoa học thuộc rất nhiều các lĩnh vực chuyên môn khác nhau viết bài tham gia như hội thảo Việt Nam học lần này. Nếu chấp nhận đầy đủ các bản đăng ký thì con số báo cáo đến nay không dưới 900, nhưng từ cách đây hơn một tháng, chúng tôi đã ngừng tiếp nhận bài để tập trung biên tập Kỷ yếu và chuẩn bị nội dung của hội thảo, thì đã có 868 báo cáo của các tác giả trong nước và quốc tế, trong đó có 170 báo cáo của các tác giả đến từ 23 nước và vùng lãnh thổ. Nếu tính số học giả quốc tế có bài tham gia hội thảo lần này thì đông nhất vẫn là các học giả Nhật Bản (46 người), tiếp đến các học giả Mỹ (28 người), Nga 15 người, Đức 11 người…. Điều cũng cần phải nói là có 20 báo cáo của nhóm các tác giả trong nước và quốc tế (bao gồm 12 báo cáo do tác giả nước ngoài và 8 báo cáo do tác giả trong nước chịu trách nhiệm chính), cũng là một nét mới của hội thảo này. Hội thảo tuy có vắng một số đại biểu ở Đông Nam Á, Đông Âu, nhưng lại có những đại biểu lần đầu đến từ Nigiêria hay Costa Rica ….
Trong hội thảo lần này tuy nhiều tiểu ban vẫn giữ nguyên tên gọi của hai lần hội thảo trước, nhưng nội dung chuyên môn đã có đổi mới. Chẳng hạn trong hội thảo lần thứ nhất, tiểu ban “Nông thôn - nông nghiệp cổ truyền” tập hợp được nhiều những nghiên cứu chuyên sâu về làng Việt truyền thống của các chuyên gia cả trong và ngoài nước, nhưng lần này trên cái nền nhận thức về nông thôn Việt Nam truyền thống, các tác giả đều hướng vào lý giải những vấn đề bức thiết đang đặt ra trong đời sống nông thôn, nông nghiệp, nông dân Việt Nam hiện nay, vừa có giá trị khoa học vừa có ý nghĩa phục vụ thực tiễn. Trên cơ sở ý kiến đề xuất của GS.VS Đào Thế Tuấn, Chủ trì tiểu ban 8, Ban Tổ chức hội thảo đã quyết định ghép hai tiểu ban 8 (Nông thôn nông nghiệp truyền thống) và 9 (Nông thôn, nông nghiệp hiện đại) thành một tiểu ban (Nông thôn, nông nghiệp Việt Nam). Chia lại tiểu ban như thế này chắc chắn sẽ hợp lý hơn, không chỉ phát huy được hiệu quả phục vụ cuộc sống, mà nó cũng thể hiện tính “liên ngành” hơn.
Tinh thần tổ chức hội thảo lần này là khuyến khích và đề cao những nghiên cứu hay những phương pháp tiếp cận mang tính liên ngành, vì chỉ có khoa học liên ngành mới có khả năng nhận diện một cách đầy đủ và chính xác những giá trị, những đặc điểm của đất nước và con người Việt Nam, tìm ra được những điểm mạnh cần phát huy, điểm yếu cần khắc phục, những lợi thế và cả những cản trở đối với Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển.
Có thêm nhiều gương mặt quốc tế mới xuất hiện trong hội thảo lần này không, thưa GS?
- Có một số gương mặt được xem là những nhà Việt Nam học tiêu biểu hàng đầu của thế giới có mặt trong hội thảo lần 1 hay lần 2 nhưng hiện nay một số không còn nữa, hoặc không thể đến tham gia vì đã quá cao tuổi, hay do hoàn cảnh riêng như các GS Georges Condominas, GS Philippe Langlet, GS J.P Drège (Pháp), GS Eto Shinkichi, GS Kawamoto Kunyie (Nhật Bản), GS David Elliot, GS Ben Kerkvliet, GS Keith Taylor (Mỹ), GS Dai Kelai (Trung Quốc)…. Nhưng đáng mừng là nhiều học giả quốc tế tiêu biểu từ hội thảo lần thứ nhất cách đây đã hơn 10 năm đến nay vẫn còn sung sức và giữ vai trò là tác giả báo cáo chính trong phiên toàn thể hay chủ trì các tiểu ban như GS Yumio Sakurai, GS Furuta Motoo, GS Suenary Michio, GS Tsuboi Yoshiharu, GS Kenji Tomita (Nhật Bản), GS David Marr, GS Thayer Carlylea (Australia), GS Dega Deopik, GS Remarchuc Valadislav (Nga), GS Yu Insun (Hàn Quốc), GS Peter Kang (Đài Loan)…
Thời gian 10 năm cũng tương đối đủ để khẳng định sự trưởng thành của cả một thế hệ các nhà khoa học. Điều đáng mừng hơn là bên cạnh những nhà Việt Nam học một thập kỷ trước, bây giờ đây có cả một đội ngũ các nhà Việt Nam học, tuy có người còn chưa thật nổi tiếng, nhưng họ lại có nhiều ưu thế trội vượt so với thế hệ cha anh. Họ được đào tạo bài bản, có phương pháp tốt, có khả năng liên kết rộng và các có điều kiện, phương tiện làm việc thuận lợi hơn. Phần nhiều trong số họ đã từng tu nghiệp ở Việt Nam, nhiều người giỏi tiếng Việt và có kinh nghiệm làm việc lâu năm tại Việt Nam . Họ đang là các đại diện chủ chốt của các nền Việt Namhọc lớn trên thế giới, có chức năng như một nhịp cầu nối hay một đầu tầu dẫn dắt các quan hệ hợp tác với Việt Nam .
Rất tiếc là do thời gian tổ chức hội thảo vào tháng 12, trùng với giai đoạn nước rút của nhiều trường đại học ở châu Âu và Mỹ, nên một số học giả đã gửi báo cáo mà không thể sắp xếp thời gian tham dự hội thảo. Cũng không thể không nhắc đến hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu mà tháng 11-12 này là một đỉnh điểm, đã cản chân nhiều nhà khoa học quốc tế đang cố gắng tìm nguồn hỗ trợ tài chính để đến với hội thảo. Rồi trong số hàng trăm nghìn khách bị kẹt lại ở sân bay Suvarnabhumi và Don Meang (Thái Lan) hay các chuyến bay bị cắt bỏ do sự cố ở Bang Kok mấy ngày qua cũng có khá nhiều các vị khách của hội thảo, trong đó có vị vừa là chủ trì vừa có báo cáo tại Tiểu ban như GS Oscar Salemink (Hà Lan), GS Korff (Đức), TS Susan Bayly (Anh) và cả TS Thaveeporn Vasavakul (Thái Lan)… chắc cũng đành phải trông vọng hội thảo từ Thái Lan…. Tuy có nhiều bất lợi không thể lường trước được, nhưng chúng tôi vẫn tin ở sự có mặt đông đảo và những đóng góp to lớn của các nhà khoa học quốc tế cho hội thảo lần này.
Với số lượng lớn như vậy, các tiểu ban sẽ có những cách làm việc khác nhau để đạt hiệu quả cao nhất không?
- Như đã nói ở trên, chúng tôi đặt vị trí rất cao cho các tiểu ban, người chủ trì có trách nhiệm tổ chức tiểu ban mình theo phong cách riêng để đạt yêu cầu cao nhất về chuyên môn. Nếu trước đây chúng tôi chủ yếu chờ các báo cáo gửi đến để phân loại, thì nay những người đứng đầu tiểu ban có thể lập ra nhóm chuyên gia để quyết định những nội dung sẽ được thảo luận, đánh giá các báo cáo gửi đến có đáp ứng yêu cầu không, thiếu nội dung gì, cần mời thêm chuyên gia nào?. Nhiều trưởng tiểu ban chủ động đặt bài hoặc mời thêm những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực họ phụ trách.
Chẳng hạn, lần này chúng tôi có tiểu ban "Tài nguyên thiên nhiên, môi trường và phát triển bền vững" (tiểu ban 18) là tiểu ban mới, hoạt động rất hiệu quả, họ đặt thêm rất nhiều tham luận, những gương mặt lớn về lĩnh vực này trong nước và quốc tế đều có mặt. Tiểu ban “Ngôn ngữ và Tiếng Việt” (tiểu ban 11) là một tiểu ban rất truyền thống, nhưng cách thức tổ chức và hoạt động lại hoàn toàn mới với hiệu quả cao. Bản thân tôi được phân công chủ trì tiểu ban "Những nghiên cứu tổng hợp theo khu vực", chúng tôi đã thống nhất chọn hai khu vực để tập trung nghiên cứu, thảo luận lần này là Thăng Long – Hà Nội và Nam Bộ. Trong khu vực Thăng Long Hà Nội chúng tôi lấy trọng tâm, trọng điểm là thành Thăng Long và phố phường Thăng Long - Kẻ Chợ. Có đến 14 báo cáo khoa học của các chuyên gia Việt Nam, Nhật Bản, Australia viết về đề tài này.
Thừa hưởng được các kết quả nghiên cứu và hội thảo về khu di tích Hoàng thành Thăng Long, lần này một số tác giả trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp các nguồn tư liệu đã đưa ra những kiến giải mới về quy mô và cấu trúc của Cấm thành và Hoàng thành. Một nhóm tác giả khác lại triển khai phân tích tư liệu làng, thôn, phường phố Hà Nội bằng công nghệ kỹ thuật 3D, 4D. Đưa công nghệ hiện đại vào nghiên cứu toàn diện về một không gian xã hội văn hoá Hà Nội, vận dụng và nâng cao phương pháp thông tin khu vực học là thành công đáng kể của nhóm chuyên gia Nhật Bản - Việt Nam do GS Mamoru Shibayama chỉ đạo. Phương pháp thông tin khu vực học cũng sẽ là một nội dung được bàn thảo để có thể vận dụng rộng rãi trong nghiên cứu và đào tạo Việt Nam học trong tương lai. Khu vực Nam Bộ và các khu vực khác trong nước cũng có nhiều báo cáo chất lượng cao được triển khai theo hướng này.
Chất lượng chuyên môn của Hội thảo tuỳ thuộc vào chất lượng của các báo cáo khoa học, trình độ chuyên môn của các chuyên gia và không khí học thuật của các cuộc thảo luận. Tôi tin rằng Hội thảo Việt Nam học lần này đã hội đủ được các điều kiện để thành công.
Hai hội thảo khoa học lớn gần đây, về "Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử VN TK 15 - TK 18" và "Nhận diện giá trịkhu di tích Hoàng Thành Thăng Long sau 5 năm nghiên cứu so sánh (2004 - 2008)" đều nhấn mạnh đến phương pháp nghiên cứu liên ngành như hướng đi cần thiết để giải quyết những vấn đề còn bỏ ngỏ. Với Việt Nam học, đó có là nhu cầu cấp thiết?
- Tôi có được cái may mắn là một trong những người tổ chức và chủ trì tiểu ban của cả hai cuộc hội thảo này nên tôi biết ai cũng thấy nhu cầu cấp thiết phải triển khai nghiên cứu liên ngành, tuy nhiên làm liên ngành thì không phải ai cũng sẵn sàng làm và có thể làm được. Theo tôi, muốn triển khai nghiên cứu liên ngành một cách thực sự thì đòi hỏi phải có quyết tâm rất cao, phải được chuẩn bị hết sức công phu, bài bản. Trong thực tế liên ngành cũng có những mức độ rộng, hẹp, cao, thấp khác nhau, nên sau khi xác định quyết tâm thì cái cần nhất là phải có lộ trình. Viện chúng tôi là Viện có chức năng nghiên cứu và đào tạo Việt Nam học theo định hướng liên ngành, nên chúng tôi buộc phải coi nghiên cứu liên ngành là nguyên tắc hoạt động, là con đường tồn tại của mình. Thật ra từ năm 1988, khi GS Phan Huy Lê thành lập Trung tâm Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam thì chúng tôi đã bắt đầu thể nghiệm làm nghiên cứu liên ngành.
Thời gian trôi qua đã tròn một phần năm thế kỷ mà chúng tôi xem ra vẫn đang còn chập chững ở những bước đi ban đầu. Chúng tôi thật sự kỳ vọng cuộc hội thảo quốc tế về Việt Nam học lần này, tranh thủ sự đóng góp của các nhà Việt Nam học quốc tế và trong nước, chúng ta cố gắng tiến thêm một bước, không chỉ dừng lại ở những định hướng mà cần thống nhất một cơ chế liên ngành trong Việt Nam học. Trước sau chúng tôi vẫn quan niệm Việt Namhọc hiện đại muốn hội nhập và phát triển phải là Việt Nam học liên ngành.
Ở Việt Nam hiện có đến gần 100 cơ sở đào tạo Việt Nam học, trong đó có 7 khoa có chức năng đào tạo cử nhân Việt Nam học, còn phần nhiều chỉ là các cơ sở dạy tiếng Việt cho người nước ngoài hay những biến thể của các lớp Văn hoá Du lịch. Đến những lớp cử nhân Việt Nam học tuy đã có Khung chương trình đào tạo do Bộ Giáo dục đào tạo ban hành, nhưng cách vận dụng xem ra cũng hết sức lúng túng và tuỳ vào khả năng của mỗi cơ sở đào tạo. Hội thảo lần này sẽ dành riêng ra một tiểu ban (tiểu ban 15) để bàn sâu về phương pháp nghiên cứu đào tạo Việt Nam học.
Chúng tôi không hy vọng mọi vấn đề đặt ra sẽ được giải quyết trong hội thảo, nhưng chắc chắn những nguyên tắc tổ chức ngành học, các yêu cầu quy chuẩn về mặt học thuật, các kinh nghiệm thành công và không thành công của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo trong nước và quốc tế sẽ giúp ích cho chúng ta chỉnh dần công việc nghiên cứu và đào tạo Việt Nam học đi đúng vào quỹ đạo của sự phát triển chung. Nếu được như vậy thì cũng là một bước phát triển đáng ghi nhận của Việt Nam học, trong đó Việt Nam học ở Việt Nam đang từng bước vươn lên nắm vai trò chủ động và vị trí trung tâm của Việt Nam học thế giới.
GS có xác định, hội thảo là dịp hội tụ rất nhiều gương mặt lớn của thế giới, cũng là một cơ hội để giới thiệu hình ảnh Việt Nam không?
-Hỏi như thế có nghĩa là đã trả lời rồi. Trong hội thảo có rất nhiều học giả nổi tiếng, nhiều gương mặt tiêu biểu có vai trò rất quan trọng với hệ thống khoa học - giáo dục - chính trị ở các nước sở tại. Nhiều người đến tham dự hội thảo là những bình luận gia nổi tiếng, những cố vấn về chính sách cho các chính phủ của họ. Đây là kênh quảng bá đất nước và con người Việt Nam cực kỳ quan trọng và hiệu quả, vì chính sự đồng thuận của các chuyên gia lớn sẽ tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập của Việt Nam với thế giới. Tài sản để hội nhập chính là đất nước và con người Việt Nam . Trong yêu cầu hội nhập, Việt Nam rất cần được giới thiệu hình ảnh đầy đủ, đúng đắn và đích thực của mình thông qua thái độ thiện cảm và tinh thần trách nhiệm cao. Có như thế thì hội nhập mới sâu và mới bền vững được. Tôi tin là Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam với tư cách là cơ quan chủ trì hội thảo cũng sẽ làm rất tốt công tác tuyên truyền đối ngoại này.








