Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ gia tăng. Việt Nam chúng ta làm gì đây?
Ngày hôm nay, một thày giáo trung học ở Kênya, một nhà bác học được giải Nobel ở Viện Công nghệ Massachusetts, hay một sinh viên một trường đại học ở Cămpuchia, khi nói đến khoa học, đều sử dụng cùng một thuật ngữ, phát biểu cùng một định luật,…, nếu ai đó nói khác đi thì điều đó chỉ có nghĩa là họ chưa nắm được lĩnh vực khoa học cần quan tâm, chỗ khác nhau chỉ là về trình độ nhận thức, khả năng sử dụng hay phát triển một lĩnh vực nào đó của khoa học. Ngay trong thời gian chiến tranh lạnh của một thế giới phân chia thành hai hệ thống chính trị khác nhau, khoa học vẫn tồn tại như một hệ thống thế giới thống nhất.
Cũng đã xảy ra trường hợp, thí dụ như ở Liên Xô trước đây, một số người đã muốn thiết lập những trường phái khoa học mang đặc thù của chế độ chính trị, thí dụ như học thuyết Lyssenko đối lập với sinh học di truyền Mandel – Morgan. Hậu quả của những cố gắng loại này, như mọi người đã biết, là ngành sinh học ở Liên Xô đã bị lùi lại nhiều thập kỷ, những chiếc bắp ngô của Liên Xô vẫn cứ bé hơn những chiếc bắp ngô ở Mỹ, việc cung cấp lương thực ở Liên Xô bị rơi vào tình trạng khó khăn.
Cũng đã có những cố gắng phát triển các kiến thức cổ truyền (y học, môi trường…) ở nơi này nơi khác, nhưng sự phát triển này sẽ chỉ có ý nghĩa nếu nó được đặt trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học hiện đại. Các hoạt động này về thực chất không phải là cái gì khác mà chính là những tìm kiếm nhằm làm phong phú thêm kho tàng kiến thức khoa học hiện đại.
Khoa học trong thế kỷ 17 còn nặng nề về lý thuyết hơn là thực hành và chỉ đến khi bước sang thế kỷ 18 mới bắt đầu có một sự ứng dụng thực tế (trong các ngành thủ công nhuộm, tẩy, dệt). Công nghiệp hoá chất xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 ở nước Anh rồi lan toả sang châu Âu lục địa, nhưng phải đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (1870 – 1913) thì tiến bộ công nghệ mới bắt đầu phụ thuộc nhiều vào nghiên cứu khoa học (được tổ chức có hệ thống với mục đích thương mại ở các trường đại học và doanh nghiệp). Cho tới Thế chiến thứ hai thì việc sử dụng khoa học trong công nghiệp, đặc biệt trong hoá chất và điện năng, đã tiến triển đáng kể và đã làm xuất hiện những hãng khổng lồ như I.G.Farben và Siemens ở Đức, Dupont và General Electrics ở Mỹ. Sau Thê chiến thứ hai, do vai trò có thể thấy rất rõ và có tính chất quyết định của khoa học trong chiến tranh (tên lửa, rađa, pênixilin,… và trên hết là bom nguyên tử), mọi người đều tin rằng khoa học cũng có thể mang lại các kết quả to lớn cho công cuộc xây dựng hoà bình ở các quốc gia; và các nước, từ công nghiệp tiên tiến cho đến chậm phát triển, nối tiếp nhau, đã xây dựng cho mình các chính sách khoa học và công nghệ quốc gia nhằm biến đổi niềm tin ấy thành sự thực.
Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay (nói đúng hơn, trong làn sóng thứ ba của toàn cầu hoá, bắt đầu từ khoảng 1980), cùng với sự di chuyển về điạ điểm của các hoạt động sản xuất qua các biên giới quốc gia được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia, cũng đã xảy ra sự di chuyển tương tự đối với các hoạt động phát triển và ứng dụng khoa học, hay nói cách khác, các hoạt động R & D (nghiên cứu và phát triển). Những nghiên cứu bắt đầu từ giữa những năm 1990 về quá trình này (xem: H.Belitz, Economic Bulletin, 6 – 2004) đã cho thấy sự gia tăng rất mạnh của sự hội nhập quốc tế của R & D (1’intégration de la R&D au niveau international) và điều đặc biệt quan trọng là sự gia tăng này lại nhanh hơn sự gia tăng của các hoạt động sản xuất (qua đầu tư trực tiếp nước ngoài).
Lấy thí dụ nước Đức. Năm 2001, đầu tư cho R&D của các doanh nghiệp của Đức ở nước ngoài là 11,9 tỷ Euro, tăng 133% so với năm 1996 (5,1 tỷ euro); trong khi đó, toàn bộ đầu tư cho R&D của Đức năm 2001 là 43,8 tỷ euro, chỉ tăng 46% so với năm 1995 (30,0 tỷ euro). Song ta cũng chú ý rằng đầu tư cho R&D ở nước ngoài của Đức tăng mạnh một phần quan trọng là do việc mua hay sáp nhập của các doanh nghiệp. Tính trung bình, cường độ R&D của các doanh nghiệp Đức có hoạt động ở nước ngoài cao hơn cường độ đó của các doanh nghiệp thuần tuý trong nước.
Đầu tư cho R&D của Đức ở nơi có khối lượng đầu tư cho R&D lớn nhất thế giới, cụ thể là Mỹ, đã tăng 3,4 lần từ 1990 đến 2001, trong khi về doanh thu ở đây chỉ tăng 2,9 lần trong cùng thời gian. Xét tất cả các doanh nghiệp nước ngoài ở Mỹ thì các con số tăng trong thời gian 1990 – 2001 về R&D là 2,6 lần, còn về doanh thu là 2 lần.
Xét theo các ngành thì đầu tư cho R&D của Đức ở nước ngoài chủ yếu là về chế tạo ô tô và hóa chất (kể cả dược phẩm), tin học, điện, điện tử và dụng cụ chính xác. Đây cũng là những ngành mà đầu tư cho R&D trong nước Đức được dành tỉ lệ cao nhất.
Quá trình ngược lại - đầu tư cho R&D của các doanh nghiệp nước ngoài tại Đức – cũng diễn ra và cũng tăng nhanh nhằm khai thác nguồn nhân lực R&D chất lượng cao ở đây, cụ thể là 11,5 tỷ euro năm 2001, tăng 130% so với năm 1995 (5,0 tỷ euro). Như vậy, trong toàn bộ đầu tư cho doanh nghiệp nước ngoài chiếm khoảng ¼. Về nhân lực R&D, phần của các doanh nghiệp nước ngoài trong toàn bộ nhân lực R&D ở Đức cũng vào khoảng như vậy: ¼. Trong khu vực công nghiệp chế tạo, nơi tập trung đầu tư cho R&D, tỉ lệ nhân lực R&D ở các doanh nghiệp nước ngoài chỉ là 1/5. Cũng giống như ở Mỹ, đầu tư cho R&D của các doanh nghiệp nước ngoài ở Đức tăng nhanh hơn sự gia tăng của kinh doanh và sản xuất. Nhìn chung, các doanh nghiệp của Mỹ và Tây Âu ở Đức tiến hành các hoạt động R&D ở trình độ gần như ngang bằng với Đức, quan trọng nhất vẫn là các doanh nghiệp Mỹ. Về phương diện này, Nhật Bản, Trung Quốc và một số nước Đông Á khác yếu hơn.
Các nghiên cứu mới nhất về sự quốc tế hoá các công ty đa quốc gia ở các nước nông nghiệp đã cho thấy vai trò thống trị của mô hình về phân công lao động quốc tếtheo đó các doanh nghiệp có các hoạt động tương tự và sản xuất các sản phẩm tương tự ở những địa điểm khác nhau với cùng những đầu tư về nhân tố sản xuất. Những nghiên cứu về quốc tế hoá R&D trong các công ty đa quốc gia đã xác nhận lý thuyết đó. Nó cũng xác nhận sự hội nhập quốc tế đang gia tăng của các tiềm lực nghiên cứu quốc gia, thể hiện rõ ở tỷ lệ so sánh ngày càng cao của đầu tư cho R&D của các doanh nghiệp nước ngoài ở Mỹ, Anh, Đức, Thuỵ điển và Nhật Bản (theo: Main Science and Technology Indicators, Vol. 2003/1, OECD). Có thể nhận xét một cách khái quát là quá trình toàn cầu hoá thương mại đã dẫn đến quá trình quốc tế hoá tri thức với sự di chuyển địa điểm của hoạt động R&D từ một nước ra nước ngoài và ngược lại; sự di chuyển này đã tăng nhanh hơn sự di chuyển của các hoạt động sản xuất và kinh doanh. Quá trình này đang diễn ra ở những nước có khoa học và công nghệ phát triển cao và các nước khác đang phải có những cố gắng rất lớn phát triển khoa học và công nghệ để có thể tham gia nhiều hơn vào quá trình này.
Ta đã xét Ấn Độ, nơi mà, theo nhiều nhà nghiên cứu, không lâu nữa sẽ trở thành một cực R&D lớn trên thế giới (xem: The Economist, 3-4-2004). Hiện nay, mặc dầu chưa tham gia đầy đủ vào quá trình hội nhập năng động của khu vực và do đó việc chuyên môn hoá nền kinh tế còn bị hạn chế, khả năng cạnh tranh của khu vực xuất khẩu cổ truyền (nông phẩm và hàng dệt may) còn kém, Ấn Độ hiện nay đã phát triển được rất đáng kể một số khu vực mới có cường độ vốn con người rất cao: tin học, dược phẩm, công nghệ sinh học. Ấn Độ hiện đã trở thành nước xuất khẩu thứ nhất trên thế giới về dịch vụ tin học cũng như về các loại thuốc dựa trên công nghệ gen (và chiếm 65% thị trường dược phẩm trong nước; năm 1971 mới chỉ đạt 25%).
Một số công ty đa quốc gia đã tăng cường đầu tư về R&D ở Ấn Độ để tích cực khai thác nguồn nhân lực tin học trình độ cao ở đây, và quả thực họ đã đạt được những kết quả đáng kể. Thí dụ như chi nhánh của Intel ở Ấn Độ năm 2003 đã nhận được 63 bằng khen sáng chế. Theo đánh giá của Chủ tịch chi nhánh này, 1.500 chuyên gia tin học làm về R&D của họ ở Bangalore có thể giải quyết được những vấn đề kỹ thuật phức tạp như ở bất kỳ dự án nào trên thế giới. Các chuyên gia này đang hoạt động trong 4 lĩnh vực thiết kế sản phẩm: thiết bị vô tuyến dải cực lớn, bộ xử lý dùng cho xí nghiệp, chíp điện thoại di động, truyền thông.
Intel có các đơn vị R&D cũng qui mô như trên ở Ixraen và bé hơn ở Nga và Trung Quốc. Ưu thế của chi nhánh ở Ấn Độ là năng lực rất cao của các chuyên gia tin học nhờ được đào tạo rất tốt và rất thạo tiếng Anh, ngoài ra là khí hậu rất tốt ở Bangalore . Hiện tại ở Bangalorecó 140.000 cán bộ tin học chuyên nghiệp, nhiều hơn 20.000 người so với Silicon Valley. Có khoảng 50 trường đại học mỗi năm đào tạo hơn 40.000 cán bộ tin học. Cách làm của Intel là tuyển mộ và đào tạo những người trẻ đã tốt nghiệp đại học và để họ làm việc với nhiều (hàng trăm) kỹ sư kỳ cựu, phần lớn trước đó là người Ấn Độ ở nước ngoài. Thành công của Intel một phần là nhờ dựa vào Texas Instrument đã có mặt ở Ấn độ đã gần 20 năm (Intel mới có mặt chưa đến 5 năm).
Theo nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu, Ấn Độ tham gia hội nhập quốc tế theo một cách không giống như các con rồng châu Á hay Trung Quốc, do sự lựa chọn chính trị và do các nhân tố cơ cấu riêng của họ. Để xuất khuẩn các sản phẩm công nghệ cao, Ấn Độ đã tiến hành một chiến lược công nghiệp hoá khác hẳn. Họ tập trung vào công nghiệp hoá chất và dược phẩm và làm chủ toàn bộ dải sản xuất (filière de production) trong khi các nước Đông Á và Đông Nam Á hướng vào các sản phẩm điện tử và truyền thông xuất phát từ lắp ráp các linh kiện nhập khẩu.
Con chủ bài đã cho phép Ấn Độ đạt được các kết quả trên đây là vốn con người – một nguồn kỹ sư và nhân lực có trình độ cao, nói thạo tiếng Anh, tiền công thì thấp hơn nhiều các đồng nghiệp ở phương Tây.
Quá trình hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ rõ ràng là một cơ hội lớn mà Việt Nam không thể không tìm cách khai thác.
Khoa học và công nghệ thế giới đã đến Việt Nam khi người Pháp xâm chiếm nước ta. Thực dân Pháp cần phải đào tạo một số người bản xứ để mở rộng và tăng cường khai thác thuộc địa và phục vụ bộ máy cai trị của chúng. Nhưng việc đào tạo này chỉ hạn chế ở một số lĩnh vực với mức độ tối thiểu và ở những cấp học dưới, nhữung chuyên gia trình độ cao được đưa từ chính quốc sang. Ở nhà máy dệt Nam Định chẳng hạn, kỹ sư hoá chất về nhuộm người Pháp. Lúc bấy giờ ở Đông Dương chỉ có duy nhất một người Việt Nam là kỹ sư hoá nhuộm. Đó là ông Đặng Vũ Tiếu. Ông đi học ở Pháp không phải vì chính phủ thuộc địa quý trọng ông (ông bị đuổi khỏi trường Albert Sarraut vì cãi nhau với hiệu trưởng) mà là do học bổng của nhà tư sản Vũ Văn An ở Hà Nội muốn có chuyên gia của mình để mở nhà máy nhuộm cạnh tranh với người Pháp. Lúc không có kỹ sư từ chính quốc sang, giám đốc nhà máy dệt Nam Định đã phải mời ông đến làm việc (lúc này nhà máy Vũ Văn An đóng cửa) (xem: Vũ Thiết, Xưa và Nay, 2-2001).
Do đòi hỏi của nhiều thanh niên trí thức không có điều kiện xuất ngoại, thực dân Pháp đã buộc phải mở những trường đào tạo cấp cao hơn: trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương được thành lập năm 1920 và tuyển sinh lần cuối cùng năm 1930, song nặng về văn chương hơn là khoa học (tốt nghiệp trường này có các ông Dương Quảng Hàm, Phạm Xuân Độ, Vũ Ngô Sán, Vũ Tam Tập, Nguyễn Lân, Nguyễn Đình Hưởng, Vũ Lai Chương, Đào Hữu Khánh…; các bà Tăng Xuân An, Hoàng Thị Nga); trường Đại học Khoa học Hà Nội thành lập năm 1941 với các chứng chỉ về toán, lý, hoá và vạn vật (khóa đầu tiên có các ông Nguyễn Văn Chiển, Phạm Tấn Hoàng, Bạch Văn Ngà, Phạm Mậu Quân, Nguyễn Chung Tú) (xem: Nguyễn Chung Tú, Vật Lý ngày nay, 12-1994).
Việc đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ tuy rất hạn chế về số lượng và cấp học, nhưng về chất lượng thì người Pháp chẳng dại gì mà hạn chế để chỉ có những nhân viên kém cỏi có hại cho mục đích cướp bóc tài nguyên và đàn áp nhân dân thuộc địa của họ. Trình độ của những người được đào tạo ở thuộc địa do đó cũng tuân theo các tiêu chuẩn ở chính quốc. Thí dụ như một người tốt nghiệp tú tài toán toàn phần ở Đông Dương có thể tự động được nhận vào Đại học Sorbonne ở Paris . Nếu cán bộ khoa học và công nghệ của chúng ta được đào tạo để phục vụ công cuộc xây dựng đất nước cũng với trình độ như vậy (cũng có nghĩa là tuân theo tiêu chuẩn quốc tê) mà lại với quy mô như đã thực hiện thì chắc chắn vai trò của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế của ta hiện nay sẽ ít phải làm các nhà lãnh đạo Nhà nước băn khoăn.
Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ cũng như bất kỳ hoạt động nào khác về phát triển khoa học và công nghệ đều luôn đòi hỏi những con người có trình độ đạt các tiêu chuẩn chung trên thế giới. Một hệ thống giáo dục và đào tạo lảng tránh các tiêu chuẩn quốc tế sẽ mang lại nhiều điều tệ hại cho quốc gia. Chính hệ thống đó đã đào tạo ra hoặc tạo điều kiện tồn tại cho những người biên soạn sách giáo khoa năm nào cũng phải sửa (*), những người tổ chức việc thi cử năm nào cũng thay đổi, và có nhiều thứ “sáng kiến” kỳ lạ khác (thí dụ như biên soạn “sách giáo khoa sạch”), những việc làm mà những người đó đáng ra phải nhận trách nhiệm về những tổn thất do làm đi làm lại nhưng lại xem là “sản phẩm mới” mà các học sinh buộc phải là khách hàng của họ!
Mọi người đều biết rằng một người cầm bút có tự trọngcần phải cân nhắc như thế nào khi cho ra đời một cuốn sách (dù chỉ đơn giản là “sưu tầm”) và nếu do sơ suất cần phải sửa chữa một số điểm nào trong cuốn sách thì cũng phải có lời xin lỗi đối với người đọc, thậm chí mong được thu hồi cuốn sách kém chất lượng và gửi biếu cuốn sách thay thế cho những người đã mua phải cuốn sách trước đó.
Vừa mới đây, theo báo cáo “Cạnh tranh toàn cầu” của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) (xem: Ngọc Minh, Thanh Niên, 3-5-2005), các chỉ số về kinh tế của ta đã tụt dốc ghê gớm chỉ trong hai năm từ 2003 đến 2005: cạnh tranh tăng trưởng từ 60/101 xuống 81/117 và cạnh tranh doanh nghiệp từ 50/102 xuống 80/116. So với Thái Lan (TL), các chỉ số xếp hạng về công nghệ của ta ở rất xa phía dưới: công nghệ: 92(VN) – 43(TL), đổi mới công nghệ: 79 – 37, chuyển giao công nghệ, 60 – 43, thông tin và truyền thông: 86 – 55, sử dụng công nghệ trong công nghiệp: 20% - 31% (Philippin 29%, Malaixia 51%, Xingapo 73%). Theo báo cáo của cơ quan Tình báo kinh tế (EIU) về chỉ số sẵn sàng điện tử của 65 nước năm 2005 thì Việt Nam đứng ở thứ 61 trong khi Inđônêxia là 60, Trung Quốc 54, Philippin 51, Thái Lan 44, Malaixia 35, Xingapo 11. Tình trạng này khó có thể nói là không có liên quan đến tình trạng thấp kém của giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ của ta hiện nay.
Nhiều nhà khoa học và giáo dục của ta đã bàn rất nhiều, năm này qua năm khác, về tình trạng giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ của ta hiện có quá nhiều vấn đề nghiêm trọng (xem: Khoa học, Giáo dục: Đi tìm diện mạo mới, NXB Trẻ/ Tia sáng, 2006). Lẽ nào mà cái tình trạng này vẫn cứ tồn tại và mọi người lại tiếp tục bàn cãi về những vấn đề chẳng có gì là phức tạp và mới mẻ cả?
(*) Ngay ở bìa các sách giáo khoa của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những sai lầm lớn. Lấy ví dụ quyển “Vật lý 7”. Trong 3 chữ ngắn ngủi này, có hai sai lầm lớn: 1) Viết “Vật lý 7” là không đúng mà cần phải sửa lại là “Vật lý lớp Bảy”. Cách viết như vừa nói trong sách giáo khoa của Bộ Giáo dục và Đào tạo là cách của nhũng người không quen nói chính xác, rồi cẩu thả, nói thế nào cầm bút viết ngay như thế. Tôi nghĩ các thày cô giáo cần quan tâm giúp các em học sinh tránh thói quen rất xấu đó;2) Quy định thay “y” bằng “i” (trừ những trường hợp không thể thay thế được) của Bộ Giáo dục và Đào tạo là vượt ra ngoài thẩm quyền của mình. Cho đến nay, trừ Bộ Giáo dục và Đào tạo và một số người bị ảnh hưởng của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mọi người viết “y” hay “i” nói chung đều căn cứ vào cách viết đã trở thành rất quen thuộc từ rất lâu và hiện còn đang rất phổ biến. Thí dụ: Viết “Vật lý Ngày nay” chứ không viết “Vật lí ngày nay”. Đã có lúc tạp chí “Tổ Quốc” của Đảng Xã hội Việt Nam đã thử thay tất cả “y” (những trường hợp có thể được) bằng “i” song việc này chỉ kéo dài được vài tháng. Người ta không hoàn toàn phản đối cách đặt vấn đề của tạp chí “Tổ Quốc”, song một sự thay đổi như vậy cần có sự quy định chung của Nhà nước (có lẽ phải thông qua Quốc hội). Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các hội viên Hội Vật lý Việt Nam đi thi chính tả ở Bộ Giáo dục và Đào tạo chắc phải nhận điểm “không”! (Tôi không nói sự không thống nhất “tự phát” hiện nay trong cách viết chữ Việt do chúng ta đang tiếp nhận rất nhiều kiến thức mới của nước ngoài mà các cơ quan nghiên cứu về ngôn ngữ vẫn chưa có biện pháp giải quyết thích hợp kiến nghị với Nhà nước. Xem: Đặng Mộng Lân, Quân đội Nhân dân Cuối tuần 22 – 8 – 2004).








