Hội nhập quốc tế về KH&CN: Những chỉ tiêu đánh giá
Tiến trình HNQT về nghiên cứu khoa học đã xảy ra từ lâu, trước cả hội nhập về kinh tế của các nước trên thế giới, bắt đầu từ những hoạt động hợp tác giản đơn như các nhà khoa học thông báo cho nhau những kết quả nghiên cứu, công bố kết quả nghiên cứu trên những tạp chí khoa học, tới việc hình thành những tổ chức, chương trình nghiên cứu có tính toàn cầu như hiện nay.
HNQT về KH&CN là sự phát triển sâu rộng hơn các mối quan hệ quốc tế trong tiến hành hoạt động KH&CN. Trong đó, mỗi quốc gia tự gắn bó với cộng đồng KH&CN quốc tế như là một bộ phận không thể tách rời, cùng hợp tác, phân công và phối hợp hành động trong quá trình nghiên cứu và phát triển KH&CN, nhằm mục đích chung là làm phong phú và sâu sắc kho kiến thức của nhân loại, đồng thời những quyền lợi quốc gia về phát triển KH&CN, kinh tế - xã hội cũng được giải quyết một cách hiệu quả hơn so với những cố gắng của từng quốc gia riêng lẻ.
Những chỉ tiêu đánh giá HNQT về KH&CN
Hội nhập KH&CN để gia tăng khả năng cạnh tranh và “đuổi kịp”
Những nghiên cứu gần đây về năng lực cạnh tranh cho thấy: Để hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu hoá và “đuổi kịp” các quốc gia tiên tiến trong khu vực, Việt Nam cần phải chuyển từ việc cạnh tranh về chi phí nhân công thấp và khai thác tài nguyên thiên nhiên sang cạnh tranh về lợi thế so sánh trong các hàng hoá và dịch vụ dựa trên tri thức và có giá trị gia tăng cao hơn.
Đuổi kịp các nước tiên tiến khác với khái niệm “Theo kịp nhịp độ”, vì theo kịp nhịp độ có nghĩa là luôn đi sau các nước tiên tiến một khoảng cách nhất định. Một quốc gia muốn đuổi kịp các nước tiên tiến, thì quốc gia đó phải có năng lực để đồng hoá và cải tiến các công nghệ được tạo ra ở các nước tiên tiến đó. Như vậy có sự khác biệt về khả năng cạnh tranh của nước tiên tiến và của quốc gia muốn đuổi kịp. Khả năng cạnh tranh của nước tiên tiến tập trung vào việc tạo ra các thị trường mới nhờ tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và triển khai (R&D) và tiếp thị. Trong khi đó, khả năng cạnh tranh đuổi kịp phải dựa trên sự đổi mới “đằng sau ranh giới công nghệ”, bao gồm những cải tiến liên tục đối với quy trình sản xuất và sản phẩm, được hỗ trợ bởi nhiều loại năng lực chuyên môn, kỹ thuật, và một số R&D chọn lọc. Khả năng cạnh tranh đuổi kịp phụ thuộc nhiều vào tinh thần doanh nghiệp, hệ thống giáo dục, các thể chế thân thiện với thị trường và khả năng quản lý đúng đắn nền kinh tế vĩ mô. Khả năng cạnh tranh đuổi kịp là một khái niệm động, nó không thể xuất hiện nếu quốc gia đó không tạo ra được các nguồn lực mới, tái cơ cấu các ngành kinh tế và các lĩnh vực xã hội, hướng đến các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn. Một trong những mục tiêu chủ yếu của hội nhập quốc tế về KH&CN đối với Việt Nam là góp phần tạo ra năng lực cạnh tranh để nước ta đuổi kịp các nước tiên tiến về trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như KH&CN.
Hội nhập theo quan điểm “cả hai cùng có lợi”
Trong quá trình HNQT về KH&CN, đến nay Việt Nam mới chỉ có thể tham gia một cách hạn chế trong các hình thức hợp tác quốc tế truyền thống, như bước đầu công nhận những chuẩn mực quốc tế về KH&CN, trao đổi cộng tác viên khoa học với nước ngoài, mà chưa có những hội nhập dưới dạng xây dựng các tổ chức nghiên cứu mang tính quốc tế hoặc thuê các nhà khoa học nước ngoài để lãnh đạo các tổ chức, các nhóm nghiên cứu của Việt Nam.
Để quá trình HNQT về KH&CN diễn ra hiệu quả cần khẳng định quan điểm “cả hai cùng có lợi”. Chẳng hạn, Việt Nam có những ưu thế về điều kiện nhiệt đới, nhưng thiếu cán bộ nghiên cứu, tri thức cũng như thiếu phương tiện nghiên cứu về nhiệt đới hoá các sản phẩm. Để phát triển các hướng nghiên cứu nhiệt đới hoá này, Việt Nam cần tận dụng các phòng nghiên cứu ở nước ngoài, nhưng khi đó lại có mối lo về lộ các bí mật kỹ thuật liên quan tới vấn đề này. Điều tương tự cũng xẩy ra đối với công nghệ sinh học, công nghệ gen, y học dân tộc... Nếu không chấp nhận chia sẻ quyền lợi thì Việt Namkhông thể có những tiến bộ kỹ thuật để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước và Việt Nam cũng chẳng được lợi lộc gì. Như vậy trong chiến lược hội nhập, cần có tư duy theo cách tiếp cận “cả hai cùng có lợi (win-win)” để có giải pháp thích hợp.
Một số lĩnh vực khác cũng sẽ xuất hiện những vấn đề tương tự. Chẳng hạn, hiện nay Việt Nam chưa có một viện nghiên cứu hoặc một trường đại học nào đạt chuẩn quốc tế. Làm thế nào để nâng cao năng lực nghiên cứu nếu không có những nhà khoa học hàng đầu phụ trách các lĩnh vực nghiên cứu ưu tiên? Con đường ngắn nhất là mời những khoa học gia quốc tế đến làm việc. Nhưng nếu vẫn sợ bị “Âu hoá”, sợ mất quyền lãnh đạo, không muốn thay đổi phong cách làm việc chưa tương thích với quốc tế của các viện nghiên cứu, các đại học hiện tại, sợ “lộ bí mật quốc gia”, thì làm sao có thể sử dụng được các chuyên gia quốc tế? Nhiều ý kiến cho rằng trong quá trình HNQT của hệ thống đại học Việt Nam, cản trở lớn nhất vẫn là tư duy chưa hội nhập về hệ thống chương trình, giáo trình đào tạo, nhất là về khoa học xã hội và nhân văn. Điều này gây khó khăn cho chiến lược HNQT tối ưu về khoa học và giáo dục.
Những nghiên cứu điều tra đánh giá năng lực công nghệ trong những năm qua đối với các doanh nghiệp Việt Nam, cho thấy có hai hình thức tương đối phổ biến, đó là: Chuyển giao các thiết bị và dây chuyền sản xuất tiến bộ từ nước ngoài; cử cán bộ, công nhân đi đào tạo những công nghệ sản xuất mới, sử dụng máy móc và thiết bị tiên tiến. Hình thức hội nhập tích cực khác, như thuê chuyên gia nước ngoài trong quản lý sản xuất và chuyển giao công nghệ, chỉ mới xuất hiện trong các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng xuất khẩu với nhãn mác nước ngoài như dệt may, da giày. Điều này thể hiện trình độ cũng như năng lực công nghệ của Việt Nam còn rất khiêm tốn.
Những chỉ tiêu đánh giá mức độ HNQT về KH&CN của Việt Nam
Trên cơ sở những chỉ tiêu nói chung trong HNQT về KH&CN đã nêu trên, để thuận tiện cho việc điều tra, thống kê và phân tích đánh giá, chúng tôi đề xuất hướng xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng lực HNQT về KH&CN đối với Việt Nam theo các nhóm lớn sau:
Các nhà khoa học:
- Sử dụng thành thạo các ngoại ngữ: Anh, Pháp, Nga... và hiểu biết về văn hoá giao lưu quốc tế, nhất là đối với các nước có nền KH&CN tiên tiến;
- Hiểu biết luật pháp quốc tế và biết cách ứng xử phù hợp với thông lệ quốc tế trong những hội nghị, hội thảo quốc tế;
- Sử dụng thành thạo những phương tiện thông tin, tìm kiếm thông tin hiện đại và khai thác tốt các kho thông tin điện tử;
- Thường xuyên trao đổi tư vấn, đánh giá phản biện do các dồng nghiệp quốc tế thực hiện;
- Tham gia trong các tổ chức KH&CN thế giới hoặc các hội thảo, hội đồng khoa học mang tính quốc tế...;
- Những công bố khoa học trên các tạp chí quốc tế và chỉ số trích dẫn.
Tổ chức KH&CN (gọi tắt là viện):
- Số thành viên của tổ chức KH&CN (đặc biệt là lãnh đạo viện) có quan hệ chặt chẽ với cộng đồng khoa học thế giới;
- Mức độ trang bị phương tiện thông tin hiện đại của viện; tỷ lệ cán bộ sử dụng thường xuyên, thành thạo các phương tiện này trong hoạt động chuyên môn;
- Mức độ sử dụng tư vấn quốc tế trong đánh giá và xây dựng chương trình nghiên cứu của viện; sử dụng các nhà khoa học quốc tế trong chỉ đạo nghiên cứu, hướng dẫn nghiên cứu sinh;
- Số lượng và tính chất các chương trình, đề tài nghiên cứu tiến hành có sự cộng tác của nước ngoài;
- Số lượt cán bộ tham gia trao đổi, cộng tác với nước ngoài hàng năm;
- Số viện nghiên cứu nước ngoài có quan hệ hợp tác thường xuyên;
- Sự tham gia của viện vào mạng lưới các tổ chức KH&CN quốc tế; vai trò của viện trong các tổ chức này;
- Tầm nhìn, chiến lược hợp tác quốc tế và việc thực thi của viện ra sao?
Doanh nghiệp:
- Năng lực tiếp cận với những nguồn thông tin công nghệ quốc tế (qua Internet, qua chuyên gia quốc tế hoặc công ty tư vấn chuyển giao công nghệ...);
- Năng lực lựa chọn, tiếp thu công nghệ tiên tiến và chủ trì các hợp đồng chuyển giao công nghệ từ nước ngoài (có chuyên gia và hiểu biết thông tin công nghệ, đánh giá công nghệ, định giá mua bán và có kỹ năng, kinh nghiệm trong vấn đề này…);
- Năng lực sử dụng các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài trong quá trình quản lý sản xuất và tư vấn chuyển giao công nghệ;
- Năng lực mở rộng mạng lưới liên kết sản xuất với các công ty nước ngoài hoặc các doanh nghiệp FDI;
- Năng lực triển khai công nghệ: Tiến hành các hợp đồng mua bán licence, sử dụng các patent trong việc tạo ra các công nghệ và sản phẩm mới;
- Năng lực liên kết với các Tập đoàn đa quốc gia trong việc tiếp nhận công nghệ, đổi mới sản phẩm, nhằm trở thành một bộ phận của Chuỗi giá trị toàn cầu (GVC), góp phần xây dựng năng lực cạnh tranh “đuổi kịp”của nền kinh tế Việt Nam.
Thể chế và pháp luật:
- Mức độ đảm bảo quyền tự do sáng tạo trong các chính sách của Nhà nước; tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động KH&CN và thiết lập các mối quan hệ quốc tế trong hoạt động này (xuất nhập cảnh, mời cộng tác viên khoa học nước ngoài, tham gia các tổ chức quốc tế về KH&CN...), bao gồm cả các quyền tự do ngôn luận, tự do công bố các kết quả nghiên cứu trong các lĩnh vực KH&CN.
- Mức độ tham gia các công ước quốc tế về bản quyền, sở hữu trí tuệ và sở hữu công nghiệp thể hiện trên các văn bản pháp lý của Nhà nước và việc thực thi;
- Sự công nhận và thực thi các chuẩn mực quốc tế về kết quả nghiên cứu khoa học, sự tôn trọng bản quyền và tính trung thực, khách quan của cộng đồng khoa học trong nước;
- Sự công nhận và tuân thủ các công ước về tiêu chuẩn hoá của quốc tế (đo lường, kỹ thuật, chất lượng sản phẩm...);
- Mức độ đánh giá quốc tế về KH&CN: Có thường xuyên? được khuyến khích và thành quy chế không?
- Tính chất của tiến trình hội nhập quốc tế của quốc gia về KH&CN: Xoá bỏ các rào cản hay chủ động, tích cực trên cơ sở một chiến lược nhằm đem lại lợi ích phát triển cao nhất về KH&CN của quốc gia, hỗ trợ quá trình xây dựng năng lực cạnh tranh “đuổi kịp” cho đất nước?
Kết quả HNQT về KH&CN:
- Kết quả về chia sẻ thông tin KH&CN: Đội ngũ KH&CN Việt Nam đã có thể tiếp cận tới hầu hết cơ sở dữ liệu thông tin KH&CN trên thế giới? Có cập nhật được những thông tin mới nhất? Mức độ tiếp cận ra sao (Internet, sách báo, tạp chí, các cộng tác viên nước ngoài...);
- Kết quả đào tạo công nhân, kỹ thuật viên, kỹ sư các lĩnh vực công nghệ mới, đào tạo cán bộ khoa học: Lưu lượng trao đổi cộng tác viên hàng năm với các trung tâm KH&CN trên thế giới, số lượng đào tạo đại học, nghiên cứu sinh, đào tạo các ngành công nghệ cao...;
- Kết quả thu hút chất xám từ nước ngoài: Số các kỹ thuật viên các lĩnh vực công nghệ mới, các khoa học gia đầu ngành đến làm việc tại Việt Nam, số lượng trí thức Việt Kiều về nước thường xuyên và đóng góp tích cực cho KH&CN trong nước...
- Mức độ sử dụng công cụ đánh giá KH&CN từ bên ngoài, do các chuyên gia quốc tế tiến hành;
- Kết quả thu hút đầu tư tài chính từ bên ngoài và tăng cường hiệu quả đầu tư vào hoạt động R&D;
- Kết quả tăng cường và hiện đại hoá trang thiết bị KH&CN cho các tổ chức KH&CN từ các nguồn hợp tác quốc tế;
- Tốc độ tăng trưởng về số lượng và chất lượng công trình khoa học của Việt Nam trên các tạp chí khoa học có uy tín trên thế giới và theo chỉ số trích dẫn;
- Những thành tựu KH&CN nổi bật, những giải thưởng KH&CN quốc gia và quốc tế của Việt Nam được ghi nhận trong tiến trình hội nhập quốc tế về KH&CN và tác động của chúng tới phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam;
- Số lượng patent, licence được mua bán thành công hàng năm thông qua quá trình tư vấn và hợp tác quốc tế về KH&CN;
- Số các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng chia sẻ, hợp tác công nghệ với nước ngoài để có thể đóng vai trò quan trọng trong một khâu chủ yếu trong GVC.
Dựa vào các chỉ số nêu trên, ta có thể cụ thể hoá hơn nữa các chỉ tiêu thành những chỉ số định lượng hoặc định tính để tiện sử dụng trong những tình huống riêng. Trong từng giai đoạn phát triển, tuỳ theo mục tiêu cụ thể của chiến lược HNQT về KH&CN, có thể chọn từ hệ thống đầy đủ trên những chỉ tiêu cơ bản nhất để điều tra và đánh giá trình độ và kết quả HNQT về KH&CN của nước ta.
Những chỉ tiêu trên đây nếu được đưa vào hệ thống thống kê KH&CN có thể trở thành công cụ giám sát tiến trình hội nhập KH&CN của Việt Nam, một tiến trình cơ bản tạo ra sự chuyển biến tích cực vị thế của Việt Nam trong hệ thống KH&CN thế giới và góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.








