Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 25/08/2008 23:35 (GMT+7)

Hình ảnh con gà từ thần thoại đến ca dao

Trong thần thoại người Việt, một loại hình nghệ thuật của thời nguyên thuỷ, con gà là tướng của ông Trời, một “gia tướng” đã từng được giao nhiệm vụ trừng phạt thần Sét. Truyện kể rằng, có lần thần Sét đánh lầm người vô tội dưới thế gian nên bị Trời phạt. Trời bắt thần Sét nằm im ở một góc rừng trên trời và sai gà thần thỉnh thoảng đến mổ một cái đau điếng. Từ khi được tha cho đến mãi sau này, Thiên Lôi cứ nghe thấy tiếng gà là giật mình. Nhân vật Cường Bạo trong truyện “Cường Bạo đại vương”, đã lợi dụng nhược điểm này nên khi chuẩn bị đánh nhau với thần Sét đã mang con gà trống theo, và dĩ nhiên chiến thắng trong lần đó. Như vậy, con gà là một con vật linh thiêng trong tư duy người xưa. Nếu trong truyện “Thần Sét”, gà là một vị thần thì trong truyện “Cường Bạo đại vương”, gà chỉ là một con vật thiêng ở trần gian. Trong tín ngưỡng dân gian cho tới ngày hôm nay, người dân còn giữ thói quen cúng tế (cầu xin hoặc tạ ơn) thần linh bằng con gà trống. Con gà là vật thiêng với con gà là vật hiến sinh có lẽ là những dấu ấn của những thời kỳ lịch sử khác nhau. Nhưng dù thế nào đi nữa thì con người cũng đã dùng con gà làm phương tiện giao tiếp với thần linh. Trong lễ mở cửa mả của người Việt, con gà được dắt đi quanh mộ ba vòng, để gọi hồn người vừa chết. Ở châu Phi xa xôi, cư dân cũng có cách nghĩ tương tự như người Việt. “Trong các nghi lễ thụ pháp và bói toán của bộ tộc Bantou ở vùng trung xứ Công, con gà mái có vai trò sứ giả dẫn hồn người chết” và “ở châu Phi da đen có tục hiến sinh gà mái để liên lạc với người đã chết…” [1, 341]. Người ta tin rằng, nếu con gà đi vòng quanh mộ là con gà mái thì sau này nó sẽ đẻ rất dày. Niềm tin này đã giữ con gà ở lại thế giới trần tục khi nó làm xong nhiệm vụ giao nối với cõi vô hình. Ở cõi trần, nó tham gia vào sinh hoạt đời sống.

Trong kho tàng ca dạo người Việt, hình ảnh con gà mang một số ý nghĩa mà qua đó phản ánh quá trình quan sát, liên tưởng phong phú của tác giả dân gian. Bài viết này, chúng tôi dừng lại với hình ảnh con gà trong ca dao Nam bộ, một bộ phận ca dao ra đời muộn so với lịch sử hình thành và phát triển của văn học dân gian dân tộc.

Khảo sát quyển “Ca dao dân ca Nam bộ” [2], chúng tôi tìm được 24 lời ca dao có chứa hình ảnh con gà, trong đó:

- Con gà, một con vật nuôi quen thuộc, là nguồn thực phẩm quý giá: 7 lời.

- Tiếng gà gáy là dấu hiệu của thời gian, đêm về sáng: 8 lời.

- Con gà là hình ảnh ẩn dụ cho một tính cách nào đó của con người: 9 lời.

Số liệu trên cho thấy tác giả dân gian có khuynh hướng sử dụng hình ảnh con gà (hoặc tiếng gà) với nghĩa tượng trưng, nghĩa là con gà trong một bộ phận ca dao không mang nghĩa biểu vật như cách nói thông thường.

Trước hết, con gà được nhìn nhận như con vật nuôi quen thuộc của người bình dân. Từ góc nhìn này, những đặc điểm cơ bản nhất của con gà đã được tác giả ca dao đề cập. Đó là con gà đi kiếm ăn bằng động tác “bươi rác bươi rơm”, gà mái nuôi cùng lúc cả bầy con, con gà trống ngoài tiếng gáy vẫn thường đá nhau… Trong số này hình ảnh con gà mái nuôi cả bầy con gợi lên bóng dáng của một người mẹ đảm đang:

Con rắn không chân đi rừng bảy rú,

Con gà không vú nuôi chín mười con.

Gà trống thích đá nhau, đây là đặc điểm thuộc về bản năng vì tạo hoá ban cho chúng hai cái cựa làm vũ khí. Người xưa đã từng gửi gắm khát vọng chiến thắng qua thú chọi gà. Trò chơi này từng được làng xã tổ chức trong mùa lễ hội. Vì vậy, có một chú gà hay hoặc “huấn luyện” để có được một chiến tướng gà dũng mãnh là điều đáng nói. Hơn nữa có gà trống đá hay là niêm tự hào của một vùng quê:

Gà nào hay bằng gà Cao lãnh,

Gái nào bảnh bằng gái Tân Châu,

Anh thương em chẳng nại sang giàu…

Tất nhiên từ rất xưa người ta biết nuôi gà để thi đấu, coi như là nuôi một “đấu thủ” trong thể thao nhưng trước hết gà là nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng và vì thế gà là món ăn ngon và sang. Cùng với tục ngữ, ca dao đã nêu lên những kinh nghiệm chế biến thịt gà:

Gà cồ ăn quẩn cối xay,

Rau răm muối ớt xé phay gà cồ,

Vì là món ăn, có giá trị dinh dưỡng nên người Nam bộ vốn hiếu khách, trân trọng tình cảm của chàng trai đã dùng món gà để thể hiện tấm chân tình:

Sài Gòn xa chợ Mĩ không xa,

Anh đi phải ghé vô nhà,

Nghèo em em chịu, làm gà đãi anh,

Có giá trị như một loại thực phẩm trong đời sống thường nhật, gà đã trở thành một thứ hàng hoá cao cấp đối với người dân quê ngày xưa.

Gà đã gáy hàng ngàn năm sau những luỹ tre, bên bờ kinh của làng quê Việt Nam và nó đi vào thơ ca như một biểu tượng của thời gian. Trong ca dao tiếng gà không đơn thuần là dấu hiệu của đêm đang chuyển về sáng mà còn là hình ảnh của một thứ thời gian tâm trạng. Đó là thời điểm hẹn hò, thời gian chờ đợi, là thước đo thời gian trăn trở, nhớ thương (vì chủ thể trữ tình đã không ngủ cho đến lúc nghe tiếng gà…)

Con chim đậu trên núi,

Nó kêu con gà dưới suối,

Gà gáy chầu đôi chầu ba,

Đêm năm canh không ngủ lại ngồi

Trong người thục nữ bồi hồi lá gan.

Miễu thần gà gáy tiếng đôi,

Trông bậu trông đứng trông ngồi,

Trông người có nghĩa bồi hồi lá gan.

Có lẽ đáng nói hơn cả là những trường hợp con gà tượng trưng cho nhân vật và tâm trạng trong ca dao, đó là:

a. Chàng trai trong quan hệ lứa đôi với tâm trạng đau khổ trước cảnh chia lìa:

Gà lạc bầy kêu chíu chít,

Phụng lìa loan phụng lại biếng bay,

Xa em từ mấy bữa rày,

Cơm ăn không đặng áo dài hở bâu.

b. Người mẹ trong quan hệ mẹ ghẻ con chồng:

Mẹ gà con vịt chít chiu,

Mấy đời dì ghẻ mà yêu con chồng,

Mẹ gà con vịt chít chiu,

Quạ nuôi tu hú, con diều ai nuôi?

c. Người có thực tài, không quá chú ý hình thức bên ngoài:

Chớ thấy áo rách mà cười,

Cái giống gà nòi lông nó lơ thơ

d. Người lao động bình thường:

Con quạ xé lá lợp nhà,

Con cu chẻ lạt, con gà dựng phên.

Những nét nghĩa trên cho thấy hình ảnh con gà được tác giả dân gian sử dụng trong tất cả đề tài cơ bản của ca dao: quê hương đất nước, tình yêu lứa đôi, tình cảm gia đình, quan hệ xã hội. Qua đó con gà tượng trưng cho các nhân vật thường gặp trong ca dao mà quá trình liên tưởng so sánh dựa trên các phạm trù: đặc điểm - tính chất, môi trường sinh tồn. Điều này cho thấy người bình dân đã từng có những quan sát, tích luỹ được trí thức về loài gà. Quan trọng hơn, loài vật này thực sự giữ một vai trò nhất định trong đời sống vật chất và tinh thần của người bình dân.

Để kết thúc bài viết chúng tôi xin dẫn thêm một hình ảnh gà mà tác giả dân gian dùng để chỉ một thành viên trong gia đình:

Khôn ngoan đối đáp người ngoài;

Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

Bài ca dao hướng tới một tình thương theo quan hệ huyết thống. Tuy nhiên ý nghĩa của nó không dừng lại ở đó mà hướng tới tình đoàn kết trong cộng đồng, từ xóm làng đến dân tộc.

Từ thần thoại đến ca dao: “con gà” về với thế giới trần tục, trở nên gần gũi với đời sống người Việt. Đó là quá trình từ chỗ quan sát, tìm hiểu những con gà hoang đến việc con người biết thuần dưỡng loài gà; dân gian nuôi gà để thi đấu, nuôi gà để làm thực phẩm, dùng tiếng gà gáy làm phương tiện báo thời gian. Người Việt đã ứng xử với tự nhiên một cách có lợi nhất trong quá trình xây dựng nền văn hoá của mình.

Tài liệu tham khảo

1. Jean Chevalier, Alain Gheebrant, 1997. Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới (Nhiều người dịch), Nxb Đà Nẵng, Hà Nội.

2. Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị, 1984, Kho tàng Ca dao dân ca Nam bộ, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.

3. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Thị Huế, 1995. Kho tàng thần thoại Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, tập hợp, đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Kể từ khi Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) được thành lập ngày 26/03/1983, Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam đã trải qua 9 kỳ Đại hội, mỗi kỳ Đại hội đã thực sự trở thành những mốc son quan trọng, đánh dấu bước phát triển cả về tư duy chính trị lẫn phương thức hoạt động của toàn hệ thống.
Hành trình phát triển văn hóa, ngôn ngữ, giáo dục bền vững của Viện CLEF
Ngày 9/7, Viện Nghiên cứu Phát triển Văn hóa, Ngôn ngữ và Giáo dục (Viện CLEF) đã tổ chức lễ kỷ niệm 5 năm thành lập. Đây là dịp để nhìn lại hành trình hình thành và phát triển của Viện, là lời tri ân sâu sắc gửi tới các đối tác, chuyên gia và cộng đồng học thuật đã luôn đồng hành, hỗ trợ và tiếp sức cho những bước tiến của Viện trong suốt thời gian qua.
Tìm giải pháp thực hiện hiệu quả các dự án viện trợ không hoàn lại
Thủ tục hành chính thực hiện và quản lý các dự án viện trợ không hoàn lại hiện nay còn phức tạp; quy trình xét duyệt, giải ngân còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ và sự hài lòng của đối tác; năng lực quản lý hạn chế; một số đơn vị thành viên thiếu chuyên môn về giám sát tài chính, báo cáo theo chuẩn quốc tế; biến động kinh tế, chính trị toàn cầu khiến nguồn viện trợ không ổn định....
Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp xúc cử tri tỉnh Khánh Hòa sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Ngày 9-10/7, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa gồm ông Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, bà Đàng Thị Mỹ Hương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và ông Nguyễn Văn Thuận đã có các buổi tiếp xúc cử tri tại xã Bác Ái Tây và xã Phước Hà sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.