Hãy học lấy cái lõi thông minh
Ngày nay, trong sự cạnh tranh giữa các quốc gia thì óc thông minh của con người được đặt lên hàng đầu, các yếu tố khác như tài nguyên, vị trí địa lý… tụt xuống hàng thứ yếu. Ví dụ như Nhật Bản rất nghèo tài nguyên nhưng lại là siêu cường kinh tế. Điều này không lạ khi ta biết rằng số sáng kiến của công nhân Nhật trong một ngày bằng số sáng kiến của công nhân Việt Nam trong 13 năm, theo thống kê trong thời gian gần đây. Tại sao vậy? Có phải vì người Nhật bẩm sinh thông minh hơn ngày Việt Nam ? – Không phải, chứng cớ là ở các kỳ thi toàn quốc, đoàn Việt Nam đều hơn đoàn Nhật. Nguyên nhân phải tìm kỹ trong cách giáo dục, đào tạo, cách quản lý, sử dụng người, ngay cả việc tổ chức các trường chuyên cũng cần xem xét lại. Ngày xưa, ta quan niệm thông minh trong sự gắn bó với thi cử, với các môn học truyền thống trong nhà trường (toán, lý, hóa, sinh…). Ngày nay, cần quan niệm thông minh một cách toàn diện, không chỉ trong việc học nội khóa các môn truyền thống, mà ngay cả ở ngoại khóa, trong sự xâm nhập vào cuộc sống, vào sự giao tiếp xã hội, vào việc quản lý từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Những môn học như triết học, tâm lý học, xã hội học lại trở nên quan trọng (dĩ nhiên là phải đổi mới nội dung và phương pháp dạy các môn này và học phải đi đôi với hành). Ngay từ năm 1904, Nhật đã thành lập Viện Sáng chế và Sáng kiến, hiện nay đã có 47 phân viện ở khắp đất nước. Bao giờ nước ta có viện đó? Người ta dùng nhiều cách, ví dụ như dùng phương pháp não công (brainstorming) để kích thích việc nảy sinh những ý tưởng mới. Trong phương pháp này, người ta tách hẳn viện phê phán các ý tưởng mới ra khỏi việc đề xuất các ý tưởng đó vì việc phê phán mà tiến hành đồng thời với việc đề xuất thì sẽ cản trở việc này. Và chăng, cái hôm nay là “ảo tưởng”, có thể ngày mai trở thành hiện thực, ví như “thiên lý nhãn, thiên lý nhĩ” (nhìn được, nghe được ngoài nghìn dặm) xưa là ảo tưởng, nay đã là sự thật với tivi, radio.
Ngày xưa, việc rèn óc thông minh sáng tạo tùy thuộc vào kinh nghiệm của từng giáo viên, không có bài bản chung, giáo viên không làm, cứ bắt học sinh học thuộc lòng cũng được.
Ngày nay, đã có một khoa học mới gọi là sáng tạo học (creatology) để dạy cho người ta sáng tạo, dù cho người học không có năng khiếu bẩm sinh. Sáng tạo cụ thể thì nhiều vô kể, có đến hàng triệu, hàng tỷ nhưng cái lõi thông minh trong đó thì có hạn, chỉ khoảng độ 40. Giống như trong hóa học, các hợp chất thì nhiều vô kể, nhưng từ khi có bảng tuần hoàn Mendelef thì ta biết rằng vô số những hợp chất chung quy lại đều do khoảng hơn một trăm nguyên tố đơn chất kết hợp lại mà ra. Cho nên sáng tạo học là chiếc la bàn để cho chúng ta tìm phương hướng trên đại dương mênh mông những sáng kiến cụ thể. 40 nguyên tắc chỉ đường cho sự sáng tạo, nếu xem xét thật kỹ để đưa lên một tầm khái quát cao hơn thì dẫn đến ba quy luật cơ bản của phép biện chứng, đó là:
- Quy luật về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
- Quy luật về sự phủ định của phủ định.
- Quy luật về việc “sự tích lũy tiên tiến về số lượng chuyển hóa thành sự biến đổi về chất”.
Bởi vậy, triết học duy vật biện chứng được coi là cơ sở triết học của sáng tạo học. Các nước phát triển đều đã đưa sáng tạo học vào nhà trường. Ở nước ta hầu như chưa có gì ngoài những lớp do hai cá nhân hấp thụ được sáng tạo học ở nước ngoài về mở ra, đó là PGS. TS Phan Dũng ở TP. Hồ Chí Minh và kỹ sư Dương Xuân Bảo ở Hà Nội.
Trong lúc chờ đợi một sự nghiên cứu về nội dung và sự chuẩn bị về giáo viên để đưa sáng tạo học vào trường học theo một lộ trình thích hợp thì những việc làm sau đây là ở trong tầm tay:
- Cử thêm người đi học ở nước ngoài để có thêm chuyên gia về sáng tạo học ngoài 2 người nói trên.
- Trong giáo dục ngoại khóa, lập ra những câu lạc bộ sáng tạo học bước đầu ở trong giáo viên và sinh viên, bước sau là ở trong học sinh. Nội dung hoạt dộng có thể là tìm được những sáng tạo cụ thể khác nhau nhưng cùng một lõi thông minh. Sau đây là ví dụ về sáu sáng tạo cụ thể khác nhau nhưng cùng một lõi thông minh như nhau:
1. Câu chuyện cân voi:Sứ Tàu sang đố vua quan ta cân được con voi. Không ai nghĩ ra được cách cân con voi. Trạng nguyên Lương Thế Vinh được mời đến: ông cho voi xuống thuyền, ghi lấy mức nước, sau đó cho voi lên bờ, đổ đá xuống thuyền cho đến mức nước nói trên rồi cân đá.
2. Chuyện đo khoảng cách:Người ta muốn đo khoảng cách giữa hai địa điểm A, B nhưng giữa hai địa điểm đó có núi chắn ngang. Người ta dùng một phép dời hình khéo chọn để có một đoạn A’B’ sao cho giữa A’ và B’ không có chướng ngại gì. Sau đó đo khoảng cách A’B’.
3. Lấy quả bóng:Lương Thế Vinh và lũ trẻ chơi bóng, chẳng may quả bóng rơi xuống một cái hố sâu, không tài nào thò tay xuống mà lấy lên được. Lũ trẻ bất lực, Lương Thế Vinh đề xuất ý kiến đổ nước xuống hố để nước đẩy quả bóng lên.
4. Thay 9 bằng 10-1:Một em học sinh lớp một phải làm phép cộng 8 + 9. Đối với học sinh lớp một, số 8 và số 9 là số lớn. Em lấy que tính ra, đếm 8 que xong đếm tiếp 9 que cho thêm vào đống 8 que rồi đếm toàn bộ được 17 que: 8 + 9 = 17. Em khác chê cách làm đó. Em đề xuất thay 9 bằng 10 – 1, lấy 8 cộng 10 thành 18, 18 trừ đi 1 thành 17, mà không cần dùng đến que tính.
5. Vừa dài, vừa ngắn:Ăng ten (tivi hay radio) cần phải dài khi bắt sóng nhưng lại cần ngắn gọn khi máy không hoạt động để khỏi chiếm chỗ, để dễ mang đi. Nguyên nó là một thanh kim loại đặc và dài. Nếu thay nó bằng một ống dài rỗng thì nảy sinh ra sáng kiến: Chặt ống ra nhiều khúc và làm sao cho khúc sau có thể chui vào năm trong khúc trước thì giải quyết được mâu thuẫn giữa ngắn và dài.
6. Giải phương trình:Trong việc giải các phương trình đại số, người ta thay phương trình đã cho lần lượt bằng những phương trình tương đương.
Sáu sáng tạo cụ thể nêu trên đều có cùng một lõi thông minh: Thay thế sự vật đã cho bằng một sự vật tương đương, nghĩa là một sự vật cũng có nội dung như ở sự vật cần nghiên cứu: Thay voi bằng đống đá (có cùng trọng lượng như con voi); thay đoạn AB bằng đoạn A’B’ (dài bằng AB); thay lực cơ bắp của cánh tay bằng lực đẩy của nước; thay 9 bằng 10-1; thay thanh kim khí đặc bằng một ống rỗng có nhiều khúc; thay phương trình đã cho bằng phương trình tương đương.
Có thể đưa vấn đề này ra cho các câu lạc bộ để kích thích việc tìm tòi những sáng tạo cụ thể có cùng một lõi thông minh. Không đòi hỏi kiến thức gì sâu xa, thậm chí người mù chữ cũng có thể nghĩ ra, ví dụ như công việc cân voi, có cần gì đến học vấn của một trạng nguyên. Thế nhưng tại sao nhiều người khác, có học hẳn hoi (như vua quan trong triều) lại không nghĩ ra được. Bởi lẽ, họ bị sức ỳ tâm lý trói lại. Sức ỳ tâm lý đó là do cứ làm mãi một việc theo nếp cũ, đường mòn. Trong ví dụ 1, thì đường mòn là do trong đời sống hằng ngày, người ta đều cân trực tiếp vật cần cân (gạo, muối, thịt, đường…), đến khi gặp vật không thể cân trực tiếp (voi) thì bí. Giáo dục và cách quản lý ở nước ta là nguyên nhân của sức ỳ tâm lý khá nặng nề trong nhân dân: thầy giảng, trò nghe, thầy ra bài, trò làm bài, rồi sách bài giải có sẵn, bài mẫu… tất cả đều cố khuôn người học vào nếp cũ, đường mòn. Ngay một số giáo viên cố thực hiện “phương pháp dạy học nêu vấn đề” thì, tuy có tiến bộ hơn là “truyền thụ một chiều” nhưng vẫn còn thụ động vì vẫn còn phải thụ động chờ người khác nêu vấn đề cho mà chưa vươn lên đến năng lực “tự mình phát hiện vấn đề”.
Trong quản lý thì sợ sếp trù nên ít ai dám trình bày những suy nghĩ độc đáo của mình. Dĩ nhiên, có nhiều kiến thức là một thuận lợi cho sự sáng tạo nhưng điều đó không có ý nghĩa quyết định. Vả chăng, biết nhiều đến đâu cho vừa ở thời đại “bùng nổ thông tin”? Phải chống được sức ỳ tâm lý, rèn luyện tư tưởng tiến công, khi đó việc có nhiều kiến thức mới thuận lợi cho sự sáng tạo, và trong đa số trường hợp, chỉ cần những kiến thức cơ bản rồi óc sáng tạo sẽ suy ra những kiến thức khác. Tóm lại, có thể nói:
- Vấn đề rèn luyện óc thông minh sáng tạo có thể đặt ra cho cả những người học vấn còn thấp. Như chuyện “cân voi” nói trên có đòi hỏi kiến thức gì cao siêu đâu. Ở nước ta, đa số những nông dân ít học mà sáng chế hay cải tiến máy nông nghiệp. Học sinh lớp 1 mà biết thay 9 bằng 10-1 để làm phép cộng với 9 cho dễ cũng là một ví dụ về việc óc sáng tạo không chờ “nhiều kiến thức”.
- Sáng tạo cụ thể thì nhiều vô kể; để tìm được sáng tạo cần thiết, phải có la bàn để đi trên đại dương mênh mông đó. Chiếc la bàn đó là sáng tạo học.
- Không nên học sáng tạo học theo kiểu học một lý thuyết suông mà học phải đi đôi với hành, thậm chí hành phần nào đó trước khi học thì học sẽ dễ thấm, ví dụ như tập dượt tìm nhiều sáng tạo cụ thể có cùng một lõi thông minh.








