Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 01/06/2006 21:19 (GMT+7)

GS.NGND Phan Đại Doãn và làng Việt Nam

Suốt trong tiến trình phát triển của lịch sử đất nước, làng Việt Nam bao giờ cũng giữ một vị trí hết sức quan trọng cho tất cả các nhà nước, các vương triều hoạch định chiến lược xây dựng và phát triển đất nước. Thành công hay không thành công của các nhà nước, vương triều hay thể chế chính trị nhiều khi tuỳ thuộc vào sự hiểu biết và các chính sách đối với làng xã dưới quyền cai quản của mình. Làng ViệtNamvì thế đã được sự quan tâm lâu dài trên hầu hết các lĩnh vực của các học giả trong nước và nước ngoài từ hàng trăm năm nay. Có khá nhiều công trình chuyên khảo về làng ViệtNamđã đạt đến độ chuẩn mực. Cũng có không ít những tác giả đã trở thành học giả xuất chúng của thế kỷ XX vì những cống hiến nổi bật trong nghiên cứu và đào tạo về làng xã ViệtNam. Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Đại Doãn là một trong những người như thế.

Ông sinh năm 1936 tại xã Diễn Quảng, huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An và sống trọn tuổi thơ ở làng quê nghèo khó xứ Nghệ cho đến khi trở thành sinh viên ngành Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khoá đầu tiên. Ông tốt nghiệp năm 1959 và làm cán bộ giảng dạy khoa Lịch sử cho đến lúc nghỉ hưu (năm 2001). Dường như ông được sinh ra là để nghiên cứu và đào tạo về làng xã ViệtNam. Ông quanh năm, suốt đời chỉ cặm cụi với cái làng “đa nguyên và chặt" của mình, bởi vì theo ông, "làng quê là một điểm tựa trong cuộc sống của tất cả mọi người từ khi chào đời cho đến lúc tạ thế”.

Từ đầu những năm 1960 cho đến giữa những năm 1970, là thời kỳ ông chuyên tâm học hỏi, tự tìm, tự bơi, tự xác định phương hướng cho riêng mình giữa biển cả làng xã mênh mông của các vùng xứ Đông, xứ Đoài, xứ Nam, xứ Bắc, xứ Thanh, xứ Nghệ... Thế nhưng loạt bài viết đầu tiên của ông vào cuối những năm 1970 cũng mới chỉ là một số làng chiến đấu, làng gốm miền Bắc, làng khai hoang ở Kim Sơn, Tiền Hải. Phải đến đầu những năm 1980, ông mới bắt đầu xuất hiện với tư cách là một chuyên gia đích thực về làng xã ViệtNam. Ông dồn tâm dồn sức, thể nghiệm, suy tư, tìm chọn cho mình một lối đi riêng, một phương pháp tiếp cận làng xã riêng, thật dân dã, chất phác mà sâu sắc và độc đáo đến bất ngờ. Đây cũng là những năm tháng ông tự hoàn thiện các mô hình lý thuyết với những khái niệm và thuật ngữ khoa học, có thuật ngữ đã trở thành tài sản chung của giới nghiên cứu làng xã ViệtNamvà thế giới, mà vẫn còn rất đậm phong cách Phan Đại Doãn. Từ cuối những năm 1980 và những 1990, ông viết hối hả, viết như đang chạy đua với thời gian để thể hiện hết mình. Ông “bao sân” từ những vấn đề về lý luận chung, những khái quát mô hình làng Việt cổ truyền cho đến các vấn đề cụ thể. Ông say mê với cơ cấu tổ chức, quản lý, kinh tế, văn hoá làng xã nhưng vẫn không bỏ qua chỉ một góc sân riêng. Lúc đầu ông định khoanh phạm vi nghiên cứu của mình ở làng Việt cổ truyền miền Bắc, rồi sau ông mở rộng ra cả khu vực các dân tộc thiểu số ở miền núi, làng xã thời kỳ cận đại và hiện đại, làng xã ở các khu vực miền Trung, miền Nam. Ông trăn trở với những vấn đề hết sức bức xúc của nông thôn, nông nghiệp như lao động, việc làm, phân hoá giàu nghèo, công bằng xã hội, thiết chế dân chủ... Ông đặc biệt quan tâm đến thể chế kinh tế và xã hội nông thôn, cấp thôn bản, bộ máy quyền lực cấp xã, quản lý nông thôn vùng dân tộc thiểu số....

GS. Phan Đại Doãn (giữa) cùng các bạn bè, đồng nghiệp
GS. Phan Đại Doãn (giữa) cùng các bạn bè, đồng nghiệp.
Từ những năm 1990, nhiều công trình của GS. Phan Đại Doãn không chỉ có tính tổng kết khoa học cao mà còn có khả năng dẫn dắt nghiên cứu ứng dụng phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống thực tiễn.Thời kỳ này cũng là thời kỳ ông được giao chủ nhiệm nhiều đề tài khoa học cấp Nhà nước về nông thôn, làng xã, nông dân... Ông hướng dẫn 60 cử nhân, 20 thạc sĩ, tiến sĩ, trong đó có gần 5 chục cử nhânvà 12 thạc sĩ đã bảo vệ thành công luận văn, luận án về đề tài làng xã. Có những vị giáo sư lẫy lừng uy danh, bóng trùm thế kỷ, mà học trò điểm mặt không được mấy ai. GS. Phan Đại Doãn chắc hẳn đãmãn nguyện vì đứng bên cạnh ông, theo sát sau ông có lớp lớp các học trò. Ông không chỉ chia cho học trò đồng xu cuối cùng, đấu gạo cuối cùng trước khi đi điền dã nông thôn thời bao cấp, mà còn muốntruyền trao cho họ hết thảy, cả đến những ý tưởng khoa học vừa chợt loé lên trên giường bệnh... Ông chính là người khai mào, thúc đẩy và góp phần tạo nên sự phát triển vượt bậc của môn học về làng xãViệt Nam ở trong nước và nhiều nước trên thế giới, tính từ đầu những năm 1990 trở lại đây.

Từ giữa năm 2000, sau những năm tháng gồng lên làm việc hết mình, đã có lúc tưởng như ông không còn khả năng tiếp tục công việc mình yêu được nữa. Nhưng may sao, chính tiếng gọi của làng xã đã trở thành nguồn lực diệu kỳ, vực ông dậy, hối thúc ông viết tiếp những trang vàng về kinh tế, xã hội và văn hoá làng xã ViệtNam. Theo kinh nghiệm của ông, người nghiên cứu về làng xã "phải nhìn một cách hệ thống trong tổng thể các quan hệ kinh tế - xã hội, từ cái kinh tế và phi kinh tế, cái quyền lực và siêu quyền lực, chuyển hoá lẫn nhau. Điều nổi bật là cái cộng đồng - một giá trị được tạo lập, duy trì và củng cố qua nhiều thế hệ. Đó là sức mạnh truyền thống vừa có tính quốc gia lại vừa có tính địa phương được sản sinh từ làng xã.... Tìm hiểu làng xã là tìm hiểu một mặt quan trọng, thậm chí là chủ yếu của con người và xã hội ViệtNamhiện nay".

Năm nay Khoa Lịch sử, nơi mà GS. Phan Đại Doãn cống hiến trọn vẹn sự nghiệp khoa học và đào tạo, vừa tròn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành. GS. Phan Đại Doãn, một trong những sinh viên tiêu biểu của khoá học đầu tiên ấy cũng bắt đầu được đặt chân vào hàng những người "xưa nay hiếm". Tuy không còn sức để đi điền dã, không còn đến được giảng đường, nhưng ông vẫn sục sôi nguyện vọng được viết tiếp, được bàn giao toàn bộ những gì ông đã dày công tích luỹ cho những thế hệ đi sau.

Làng ViệtNamđang ngày một đổi thay, nhưng những ý tưởng cao sâu, những tinh tuý được chắt lọc suốt một cuộc đời nghiên cứu và đào tạo về làng ViệtNamcủa GS. Phan Đại Doãn, thì chắc hẳn sẽ không bao giờ thay đổi. Làng ViệtNamđa nguyên và chặt, cùng với thời gian đã trở thành bức chân dung không thể mờ phai của GS. NGND Phan Đại Doãn.

Nguồn: http://100years.vnu.edu.vn

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.
Trí thức tiêu biểu Nguyễn Tiến Quyết - Người chinh phục khoa học để lấy mạng sống cho con người!
Nhắc đến ông là nhắc đến chân dung của một người thầy thuốc tâm huyết, nhà khoa học nhiệt thành và một nhà giáo với tình yêu nghề đậm sâu. Có thể nói, xuyên suốt chặng đường cống hiến không ngừng nghỉ đã qua, bằng tâm sức, niềm đam mê khoa học bất tận, ông đã có những cống hiến đáng tự hào cho nền y tế nước nhà.

Tin mới

Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức KH&CN & LHHVN trong hoạt động của MTTQVN các cấp
Nhằm thảo luận, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh và phát huy sức mạnh trí tuệ của đội ngũ trí thức trong hệ thống LHHVN tham gia vào các hoạt động của MTTQVN, nhất là trong hoạt động TV,PB&GĐXH, LHHVN tổ chức Hội thảo Giải pháp phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức trong hoạt động của MTTQVN các cấp. Hội thảo được tổ chức vào chiều ngày 19/11, tại trụ sở LHHVN.
Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao
Việc quy hoạch lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giúp các cơ sở này nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và khả năng thích ứng với những thay đổi của xã hội và nền kinh tế, cần tính toán nhu cầu đặc biệt quan trọng của đất nước về nguồn nhân lực chất lượng cao như kỹ sư bán dẫn, kỹ sư vận hành đường sắt tốc độ cao…