Giáo dục và những thăng trầm đổi mới
Dường như đến hẹn lại lên, bước vào mỗi năm học mới, giáo dục đều tạo ra những “dư chấn” của sự đổi mới. Và mới chỉ vào đầu năm học 2014, ngành giáo dục lại tạo ra nhiều sự cố, sự kiện đẩy dư luận vào tình trạng rối như tơ vò như bỏ một trong hai kỳ thi; chuyện đột nhiên thiếu sách giáo khoa cho học sinh cấp 1; rồi cái dự định mỗi học sinh từ lớp 1 đến lớp 3 cần sắm một máy tính bảng và gần đây nhất là đề xuất thay đổi số năm học phổ thông… Vậy đâu sẽ là điểm dừng của đổi mới giáo dục?
“Câu chuyện giáo dục không có đáp số cuối cùng, chỉ có đáp số hợp lí hơn cả mà thôi”, ông Mai Văn Trinh, Cục trưởng Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng hoàn toàn có lý khi nói điều này. Chúng ta thực hiện đổi mới để tạo ra chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhu cầu học tập của nhân dân. Quan điểm chỉ đạo đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam được vạch ra là đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục;là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ tư duy, quan điểm đến mục tiêu, hệ thống, chương trình giáo dục (nội dung, phương pháp, thi, kiểm tra, đánh giá), các chính sách, cơ chế và các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục; đổi mới ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo, ở cả Trung ương và địa phương, ở mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Làm được điều đó đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, các giải pháp đồng bộ, khả thi, có cơ sở khoa học…
Song thực tế đã không như vậy!
Một hay hai kỳ thi không phải là điều quan trọng. Bởi nếu xét về mặt logic bình thường, có lẽ đa số sẽ đồng ý nên duy trì kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và bỏ bớt kỳ thi tuyển sinh đại học. Thế nhưng qua tranh luận mới thấy ở Việt Nam, logic bình thường không phải lúc nào cũng đúng. Tại sao không dung hòa bằng cách xếp loại tốt nghiệp đúng thực chất, trong đó dù tỷ lệ đỗ vẫn có thể cao như hiện nay nhưng đa số sẽ đỗ ở mức bình thường. Chỉ có một tỷ lệ nhất định đỗ ở mức khá, mức giỏi và mức xuất sắc. Lúc đó tấm bằng tốt nghiệp lại mang tính phân loại và sàng lọc cao để một số em yên tâm đi vào con đường học nghề, một số em chọn các trường cao đẳng, trung cấp ngay từ đầu và một số em khác chọn đi tiếp vào đại học. Đây là con đường lấy lại giá trị cho tấm bằng từng có lúc được gọi là bằng tú tài. Và lúc đó sự chọn lựa của chúng ta cũng hòa chung với sự chọn lựa của nhiều nước khác trên thế giới. Không thể để nền giáo dục cứ mãi quay cuồng với thi cử.
Hay, ở sự thay đổi sách giáo khoa truyền thống bằng sách giáo khoa điện tử cũng vậy. Liệu rằng sự thay đổi đó có giải quyết được vấn đề “cơ bản và toàn diện” của sự tụt hậu giáo dục hay không? Câu trả lời là “Không”. Đề án phải đặt trên cơ sở khoa học chuyên môn sư phạm, trên yêu cầu hiểu dân, trên mục tiêu cốt lõi của cải cách giáo dục. Cuộc sống còn bộn bề những khó khăn, một bộ sách giáo khoa điện tử sẽ là không dễ dàng đối với con em gia đình thu nhập trung bình - mà sự học thì phải luôn bình đẳng. Chúng ta đang “hồn nhiên” tạo ra khoảng cách giàu – nghèo cho chính con trẻ. Xã hội đang cần đến một nền giáo dục đề cao tính nhân văn và tri thức, sự cải tiến hiệu quả trong nội dung học trình thì những gì mà các nhà hoạch định chính sách giáo dục lại mang đến chỉ là những sản phẩm đặt nặng tính phương tiện, hình thức… Vấn đề thuộc hàng “quốc sách” nhưng lại chỉ đặt ở mức “thí điểm”?
Điều quan trọng giáo dục Việt Nam đảm trách thời hội nhập chính là chiến lược chuẩn bị nguồn nhân lực thực học thực nghiệp, trong một cuộc đột phá quy mô và giàu tính kế thừa về tư duy làm giáo dục. Đột phá tư duy là điều những nhà làm giáo dục nước ta trăn trở nhiều năm. Giờ đây triển khai Nghị quyết 29, tư duy đột phá trong giáo dục phải quyết liệt và sát với thực tiễn hơn. Đổi mới cần mang đến giá trị gia tăng cho người học và đất nước.
Một nền giáo dục không thể ảo tưởng “cá chép hóa rồng” ngay tức khắc mà phải thấm thía rằng đổi mới thực sự, sớm hay muộn phải được chấp nhận bởi chính người học và xã hội. Vì thế trước khi các nhà quản lý giáo dục quyết định chiến dịch “tấn công” vào nền học vấn khoa cử hiện hành, xã hội cần được thuyết phục và truyền cảm hứng bằng các ý tưởng gần gũi với thực tế xã hội. Đổi mới gắn với sáng tạo và truyền cảm hứng là cách phối hợp lạ mà hiệu quả. Tất nhiên để “hóa rồng” như kỳ vọng, cần đột phá thực sự cả về nguồn lực lẫn cách thức đầu tư.
Xin nhớ rằng, sản phẩm của giáo dục là con người vì thế giáo dục không được phép tạo ra những phế phẩm. Giáo dục không thể là những “thí điểm” này đến “thí điểm” khác trên người học, trên tương lai của đất nước, trên niềm tin của người dân. Hy vọng giới chuyên gia, tư vấn cùng xã hội tiếp tục vào cuộc cùng các nhà quản lý giáo dục, gợi ý, gây cảm hứng và tiếp sức cho tất cả những ai đang trăn trở, tìm kiếm, vận dụng cách nghĩ cách làm để giáo dục và đào tạo thực sự là quốc sách hàng đầu, là một trụ cột của tương lai đất nước.
“Nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, khoa học giáo dục và sự cạnh tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia đòi hỏi giáo dục phải đổi mới. Thực chất cạnh tranh giữa các quốc gia hiện nay là cạnh tranh về nguồn nhân lực và về khoa học và công nghệ. Xu thế chung của thế giới khi bước vào thế kỷ 21 là các nước tiến hành đổi mới mạnh mẽ hay cải cách giáo dục”. |








