Giải pháp nào để khoa học và công nghệ gắn kết với sản xuất
Thực tế là các loại cây ăn quả lâu năm như cam, quýt, vải, xoài, nhãn... phải có ít nhất 3-4 năm sau khi trồng mới có khả năng cho quả. Nếu chỉ quan sát một hai vụ quả đầu chưa thể khẳng định được hiệu quả kinh tế, khả năng thích nghi của một giống cây so với cả chu kỳ sản xuất từ 15-20 năm, hoặc còn lâu hơn. Do vậy, đối với các cây lâu năm nếu cứ làm đến đâu, thấy tốt là tung ngay giống cho sản xuất thì sẽ là một việc làm theo kiểu “đem con bỏ chợ”. Bởi thế, một kết quả được coi là tiến bộ kỹ thuật từ một đề tài, một chương trình, một dự án được bảo vệ thành công, có khi đạt xuất sắc thì cũng chưa một ai dám bảo đảm một cách chắc chắn rằng sản phẩm khoa học đó sẽ tạo ra một lượng nông sản hàng hóa nhất định có chất lượng cao, giá thành hạ, đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Chẳng hạn như để tạo ra vùng dứa nguyên liệu cho chế biến, cây giống phải được đặt ra trước hết nhưng nếu với giá thành trên 500 đồng một chồi dứa thì đưa vào sản xuất, chỉ riêng tiền giống đã phải có ít nhất trên 25 triệu đồng/ha, quả là rất khó cho nông dân nghèo ở miền núi, nơi có quĩ đất lớn nhưng lại không có vốn để đầu tư.
Nếu thống kê hàng năm thì con số đề tài, chương trình, dự án là rất lớn nhưng chưa có con số nào xác minh cụ thể về tỷ lệ đề tài có hiệu quả thật sự trong việc ứng dụng vào sản xuất làm tăng lượng nông sản hàng hóa.
Trong thực tế không phải là không có những trường hợp tốn kém nhiều tiền của của nhà nước, cuối cùng cũng chỉ khẳng định lại một tiến bộ khoa học đã đi vào lịch sử. Từ việc tranh thủ khai thác cơ chế xin - cho mà không ít nội dung khoa học lặp đi lặp lại, có khi những người đến sau, bước vào lĩnh vực nghiên cứu dễ xảy ra “chuyện cũ viết lại”, nghiên cứu ứng dụng nhưng không tìm được địa chỉ ứng dụng. Một vấn đề tưởng như rất cũ mà ai cũng hiểu, đó là việc chuyển giao các giống cây đặc sản, quí hiếm. Việc này chỉ được phát huy đầy đủ bản chất ưu việt khi nó được gắn kết với môi trường sống hạn hẹp thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên trải qua nhiều thế hệ để tích tụ nên cái chất đặc sản riêng của nó.
Chẳng hạn như, giống bưởi Thanh Trà xứ Huế không dễ trồng ở điều kiện của vùng đồi Nghệ An. Thất bại của giống quít Đại Hồng (Trung Quốc), quít Bắc Quang, Hà Giang được trồng tại Phủ Quì những năm vừa qua đã minh chứng cho điều này, giống bưởi Phúc Trạch nổi tiếng của Hương Khê, Hà Tĩnh không còn là chính nó về kích thước và vị thơm ngon khi đem trồng ở nơi khác. Tình trạng lấn át sân chơi trong chuyển giao công nghệ giữa các cơ sở nghiên cứu vùng không phải là hiếm. Việc đánh giá, kiểm chứng kết quả nghiên cứu nếu chỉ bằng một phỏng vấn hay đọc một báo cáo thành tích là không đủ mà cần phải bắt đầu từ những người ứng dụng, những con số của người sản xuất, dù cho người ứng dụng kết quả nghiên cứu có là những thượng đế của nhà khoa học. Tư duy bao cấp kéo dài đã ăn sâu trong tiềm thức của không ít người. Tình trạng cứ đến hẹn lại lên, đến kỳ viết báo cáo để nạp lên trên cho dù tiêu tốn hàng trăm triệu đồng cho một đề tài một năm cũng mặc kệ.
Có nhiều nguyên nhân nhưng điều mà ai cũng dễ dàng nhận thấy là mối liên kết giữa “hai nhà”, khoa học và sản xuất trong lĩnh vực cây đặc sản lâu năm mới chỉ dừng lại ở mức độ có thể gọi là nửa dơi, nửa chuột. Trách nhiệm của nhà khoa học, cơ quan quản lý khoa học coi như kết thúc khi hợp đồng mua bán giống được nghiệm thu hay việc chuyển giao công nghệ về chiết, ghép, nhân giống được bàn giao cho sản xuất, với tỷ lệ sống, nảy chồi là đủ làm căn cứ để thanh toán, còn người sản xuất thì phấp phỏng đợi chờ đến mấy năm sau, mong mùa quả chín.
Thật ra ai cũng biết đấy, hơn ai hết là các nhà khoa học, cũng không phải họ vô trách nhiệm với sản xuất, không phải cán bộ khoa học nào cũng tự bằng lòng với cái danh công chức sự nghiệp kiểu “sớm vác ô đi, tối vác ô về” nhưng một khi mà cơ chế vẫn còn cho phép rằng cơ quan quản lý khoa học lo đầu tư kinh phí để nuôi đề tài, chương trình, dự án, nuôi bộ máy sự nghiệp cồng kềnh của nó nhưng họ lại không phải là người đòi hỏi sống còn đối với các sản phẩm của khoa học công nghệ, phải giải cho được những cái cần, cái khó rất cụ thể đang diễn ra trong thực tế sản xuất.
Bởi vậy, nếu chỉ bằng với các hợp đồng để liên kết các nhà, nhất là nhà khoa học và người sản xuất hay cả việc đấu thầu đề tài thì khoa học công nghệ với sản xuất cũng vẫn “anh đường anh, tôi đường tôi”. Nhà khoa học cứ đóng cổng nghiên cứu còn người sản xuất thì cứ tự bươn chải để tìm kiếm những thành công bằng kinh nghiệm. Chỉ có gắn kết trách nhiệm và quyền lợi của “hai nhà” làm một, cùng chịu và cùng hưởng. Nhà khoa học phải đi theo đến cùng với sản phẩm hàng hóa, không thể chỉ dừng lại ở kết luận và đề nghị trên các báo cáo mà người sản xuất lâu nay vẫn hằng được nghe.
Muốn vậy, các cơ sở nghiên cứu ứng dụng không thể tách rời một tổ chức sản xuất ngành theo phương châm “ăn cây nào, rào cây ấy” có như thế mới xóa đi sự khập khiễng vẫn tồn tại lâu nay trong tính toán lợi ích giữa “hai nhà”. Người nông dân thì coi vườn cây, trang trại là nơi sinh sống, là xóa đói giảm nghèo, trong khi nhà khoa học lại coi đây là nơi để tăng thu nhập thông qua hợp đồng kinh tế ngoài sự bao cấp của nhà nước thì quả một chuyện lạ có thật.








