Giải cứu “cơn khát” cho cao nguyên đá
“Cơn khát” mùa khô trên cao nguyên đá
Cao nguyên đá Hà Giang nằm ở phía Bắc của đất nuớc, nơi đây có bốn huyện nghèo vùng cao là Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh và Quản Bạ với khoảng 29 vạn dân chủ yếu là người H’Mông chiếm 75%, và phần lớn phân bố trên địa bàn đồi núi cao. Nằm ở độ cao trung bình trên 1200 mét so với mực nước biển, thiên nhiên ở đây thật hùng vĩ với những địa hình có độ dốc cao, hiểm trở, những dãy núi xanh tím trùng điệp nổi lên những vách đá dựng đứng, nhăn nhúm đan xen giữa những gân đá thô kệch bạc tuyếch lộ ra sự bào mòn của thời gian đi cùng với điều kiện khắc nghiệt của tự nhiên. Thế mới biết sự chịu đựng của con người nơi đây phi thường đến nhường nào.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tặng quà cho đồng bào dân tộc huyện Đồng Văn |
Nước ở vùng cao nguyên đá quý như vàng là vậy. Thiếu nước vẫn là nỗi lo đeo đẳng đồng bào vùng cao. Theo đánh giá, có đến 90% dân bản thiếu nước sinh hoạt vào mùa khô.
Nhằm giải quyết “cơn khát” cho bà con, thực hiện chương trình 134, tỉnh Hà Giang đã tiến hành xây dựng hơn 3000 bể nước mưa, lu chứa nước, hệ thống dẫn nước tự chảy, 152 công trình nước sinh hoạt tập trung với tổng kinh phí hơn 11 tỷ đồng. Nhà nước và địa phương cũng đã trích ngân sách đầu tư hơn 165 tỷ đồng cho việc xây dựng những công trình cấp nước sinh hoạt. Nhưng mỗi khi mùa khô đến, cao nguyên đá vẫn “khát nước” trầm trọng.
Giải cứu “cơn khát” bằng công nghệ “hồ treo”
Qua khảo sát và thăm dò, các nhà khoa học phát hiện ra rằng, trong cái khô hạn của vùng cao lại tiềm ẩn một nguồn nước ngầm phong phú. Do cấu trúc địa hình và kiến tạo địa chất nên vùng cao không tồn tại những ao hồ, sông suối như những nơi khác. Sau mỗi trận mưa, nước trên những đỉnh núi cao nhanh chóng thấm sâu vào lòng đất theo những khe nứt, những đường đứt gãy kiến tạo rồi tập trung chảy dồn về những miền thấp tạo thành những dòng ngầm trong núi hoặc trong lòng đất. Đến một nơi nào đó, nước “xuất lộ” tạo nên những dòng suối, khe nước mà người dân bản thường gọi là mó nước. Nhưng đến lúc này, nguồn nước xuất hiện cách xa khu dân cư đến hàng chục cây số.
Đã có nhiều đoàn nhà khoa học cả trong và ngoài nước lên khảo sát nhằm tìm lời giải cho bài toán khan nước nơi đây với giải pháp “khoan nước”. Cao nguyên đá bạt ngàn với những dãy núi trùng điệp, cạnh đá tai mèo sắc nhọn thì việc khoan dò khác nào “tìm kim đáy bể”, tốn kém mà hiệu quả lại không cao. Không đi theo lối mòn, hướng nghiên cứu truyền thống, qua phân tích và xác định được nguồn nước vách núi không thường xuyên tiềm ẩn sau những trận mưa và những đặc điểm địa hình, địa chất, các nhà khoa học đã ứng dụng công nghệ hồ treo “giam” nước trên non cho dân bản, một giải pháp đơn giản nhưng đầy sáng tạo và hiệu quả.
Đặc điểm của công nghệ hồ treo là xác định nguồn nước trong núi, sau đó tiến hành “khai sơn phá thạch” bằng công nghệ khoan đào hoặc nổ mìn đưa nước vào hồ chứa. Đây là công nghệ tạo nguồn và quan trọng nhất đối với hồ treo để “mở cửa” kho nước núi. Vùng núi đá vôi có hiện tượng karst hòa tan, xâm thực và bào mòn đá vôi mạnh tạo thành những hang hốc để nước thấm sâu vào. Những phễu sụt karst có đường kính miệng tới 300-400m, sâu 50-70m được các nhà khoa học chọn làm hồ chứa. Công nghệ xử lý phễu karst là công nghệ quan trọng quyết định mức độ trữ nước của hồ treo. Việc gia cố nền hồ chứa là một công việc gian nan đối với các nhà khoa học và kỹ sư xây dựng. Bên cạnh áp dụng những kỹ thuật thông dụng như san lấp, nổ mìn phá đá, đầm nện, đổ bê tông cốt thép..., các nhà khoa học đã ứng dụng những tiến bộ công nghệ như vật liệu địa kỹ thuật tổng hợp bao gồm vải lọc và màng chống thấm có tác dụng tránh rửa trôi, xói mòn ngầm, chống thấm. Vì đặc điểm hồ treo được xây dựng ở độ cao có cao trình cao hơn khu vực dân cư sinh sống nhằm thuận tiện cho những nơi chưa có điện lưới, buộc các nhà khoa học phải sử dụng công nghệ khoan ngang tạo đường dẫn nước từ phễu karst, qua những gờ núi đá tới khu vực dân cư. Khoan ngang là một công nghệ khó và mới được triển khai trong các ngành mỏ và nước ngầm giúp các kỹ sư không phải nổ mìn phá đá đào kênh. Bên cạnh những khó khăn về địa hình, địa chất, các nhà khoa học còn gặp phải những khó khăn do tập tục, nhận thức của người dân bản. TS Vũ Cao Minh tâm sự, “Khu vực núi đá vôi có rất nhiều phễu karst, và vì vậy phải chọn những phễu thích hợp để làm hồ chứa. Nhưng có một số phễu bà con trồng ngô ở đó và không thể thuyết phục bà con nhổ cây ngô đi để làm hồ chứa”.
Hồ treo Lùm Pè, Thuận Châu, Sơn La |
Sẽ có nhiều hồ treo...
Đối với vùng cao Hà Giang, những chiếc hồ treo đã trở thành nguồn “cứu sinh” giữ chân bà con dân bản ở lại với vùng đất đầy khắc nghiệt, là một nét đẹp văn hóa, đồng thời cũng là nơi kết dính và gặp gỡ của những cộng đồng vùng cao. Việc xây dựng hồ treo không chỉ giải quyết tình trạng khan hiếm nước ở các tỉnh miền núi phía Bắc, thay đổi tập quán dùng nước của đồng bào dân tộc thiểu số mà còn góp phần cải thiện, ổn định đời sống đồng bào dân tộc. Nguồn nước hồ treo trên vùng cao tác động mạnh đến cơ cấu mùa vụ và sắc thái kinh tế cho vùng này đồng thời thúc đẩy các hoạt động du lịch. Về hiệu quả kinh tế trong việc cấp nước sinh hoạt cao gấp10-15 lần so với hình thức xây dựng lu bể chứa nước đang được đầu tư. TS Vũ Cao Minh cho biết, “Kinh phí xây dựng 1m3 lu bể khoảng 0,5-1 triệu đồng trong khi kinh phí xây dựng 1m3 dung tích hồ treo chỉ khoảng 50-100 nghìn đồng”.
Niềm vui lại tiếp tục đến với đồng bào vùng cao, sau chuyến làm việc với tỉnh Hà Giang đầu năm 2007, ghi nhận hiệu quả rõ ràng của hồ treo Xà Phìn và Tả Lủng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã quyết định xây dựng 30 hồ chứa nước bằng công nghệ hồ treo, mỗi hồ khoảng 2-3 tỷ đồng giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính bố trí nguồn vốn để tỉnh thực hiện trong năm 2007-2008.
Về phía các nhà khoa học, TS Vũ Cao Minh cho biết, “Việc triển khai thành công giải pháp hồ treo đã khẳng định khả năng nhân rộng mô hình và tạo cơ sở công nghệ cho việc xây dựng những hồ trữ nước quy mô lớn 7-10 vạn m3, kết hợp cấp nước với phát triển du lịch tắm hồ, nghỉ mát lần đầu tiên cho đồng bào các dân tộc vùng cao nguyên đá và khách du lịch”. “Trong thời gian tới, giải pháp “hồ treo” sẽ được triển khai rộng rãi ở khu vực dân cư kinh tế vùng núi cao đá vôi Hà Giang, Điện Biên, Cao Bằng, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Bắc Cạn, Hòa Bình, Yên Bái, và những khu vực dân cư kinh tế ở các khu vực đồi núi vùng Đông Bắc Bộ, Tây Bắc Bộ, miền Trung, Tây Nguyên và các hải đảo”, TS Vũ Cao Minh cho biết thêm.