Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 15/06/2007 21:55 (GMT+7)

Giải cứu “cơn khát” cho cao nguyên đá

“Cơn khát” mùa khô trên cao nguyên đá

Cao nguyên đá Hà Giang nằm ở phía Bắc của đất nuớc, nơi đây có bốn huyện nghèo vùng cao là Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh và Quản Bạ với khoảng 29 vạn dân chủ yếu là người H’Mông chiếm 75%, và phần lớn phân bố trên địa bàn đồi núi cao. Nằm ở độ cao trung bình trên 1200 mét so với mực nước biển, thiên nhiên ở đây thật hùng vĩ với những địa hình có độ dốc cao, hiểm trở, những dãy núi xanh tím trùng điệp nổi lên những vách đá dựng đứng, nhăn nhúm đan xen giữa những gân đá thô kệch bạc tuyếch lộ ra sự bào mòn của thời gian đi cùng với điều kiện khắc nghiệt của tự nhiên. Thế mới biết sự chịu đựng của con người nơi đây phi thường đến nhường nào.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tặng quà cho đồng bào dân tộc huyện Đồng Văn

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tặng quà cho đồng bào dân tộc huyện Đồng Văn

Khí hậu vùng cao này mang đậm màu sắc ôn đới và chỉ có hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Mùa khô nơi đây thường kéo dài từ cuối tháng mười năm trước đến đầu tháng tư năm sau. Tuy thuộc vùng tiểumưa (1600-1900mm), một năm có khoảng gần 200 ngày mưa, nhưng điều khó hiểu là ở đây người dân vẫn thiếu nước trầm trọng mỗi khi mùa khô đến. Những ngọn núi trọc trơ không giữ nổi cái nước cho bà condân bản. Mưa bao nhiêu, nước lại ngấm qua những khe đá nứt nẻ “chạy” mất tăm. Nguồn nước sinh hoạt được dân bản lấy từ những mó nước, hốc đá, khe suối hoặc lu chứa nước. Nhưng mùa khô đến, nước ởnhững hốc đá, khe suối cũng bị khô kiệt. Để săn lùng “cái vô cùng thiết yếu” cho cuộc sống này, bà con phải vượt bộ hàng chục cây số đồi núi, mất cả ngày trời mới gùi nổi một can nước mang về, chưakể trên đường rơi vãi về đến nơi chẳng còn lại bao nhiêu. Cũng chẳng lấy gì làm lạ khi nhiều hộ vẫn còn phải dùng nước “quay vòng”, thậm chí ở một số nơi, những đứa trẻ một năm chỉ được tắm vài lần.Nước sinh hoạt đã khan hiếm như vậy thì nghĩ gì đến chuyện tìm nước tưới cho cây lúa, cây ngô ngoài nương khiến đời sống dân bản đã nghèo nay lại càng nghèo thêm. Đặc biệt ở thị trấn Mèo Vạc với gần3 nghìn dân, nguồn nước được lấy từ những khe suối thượng nguồn lưu lượng dao động mạnh theo từng trận mưa, vào cuối mùa khô, lưu lượng chỉ còn 1lít/giây, không đủ dùng cho sinh hoạt buộc phải dùngxe téc chở nước từ nơi khác về cung cấp cho các hộ gia đình với giá đắt đỏ.

Nước ở vùng cao nguyên đá quý như vàng là vậy. Thiếu nước vẫn là nỗi lo đeo đẳng đồng bào vùng cao. Theo đánh giá, có đến 90% dân bản thiếu nước sinh hoạt vào mùa khô.

Nhằm giải quyết “cơn khát” cho bà con, thực hiện chương trình 134, tỉnh Hà Giang đã tiến hành xây dựng hơn 3000 bể nước mưa, lu chứa nước, hệ thống dẫn nước tự chảy, 152 công trình nước sinh hoạt tập trung với tổng kinh phí hơn 11 tỷ đồng. Nhà nước và địa phương cũng đã trích ngân sách đầu tư hơn 165 tỷ đồng cho việc xây dựng những công trình cấp nước sinh hoạt. Nhưng mỗi khi mùa khô đến, cao nguyên đá vẫn “khát nước” trầm trọng.

Giải cứu “cơn khát” bằng công nghệ “hồ treo”

Qua khảo sát và thăm dò, các nhà khoa học phát hiện ra rằng, trong cái khô hạn của vùng cao lại tiềm ẩn một nguồn nước ngầm phong phú. Do cấu trúc địa hình và kiến tạo địa chất nên vùng cao không tồn tại những ao hồ, sông suối như những nơi khác. Sau mỗi trận mưa, nước trên những đỉnh núi cao nhanh chóng thấm sâu vào lòng đất theo những khe nứt, những đường đứt gãy kiến tạo rồi tập trung chảy dồn về những miền thấp tạo thành những dòng ngầm trong núi hoặc trong lòng đất. Đến một nơi nào đó, nước “xuất lộ” tạo nên những dòng suối, khe nước mà người dân bản thường gọi là mó nước. Nhưng đến lúc này, nguồn nước xuất hiện cách xa khu dân cư đến hàng chục cây số.

Đã có nhiều đoàn nhà khoa học cả trong và ngoài nước lên khảo sát nhằm tìm lời giải cho bài toán khan nước nơi đây với giải pháp “khoan nước”. Cao nguyên đá bạt ngàn với những dãy núi trùng điệp, cạnh đá tai mèo sắc nhọn thì việc khoan dò khác nào “tìm kim đáy bể”, tốn kém mà hiệu quả lại không cao. Không đi theo lối mòn, hướng nghiên cứu truyền thống, qua phân tích và xác định được nguồn nước vách núi không thường xuyên tiềm ẩn sau những trận mưa và những đặc điểm địa hình, địa chất, các nhà khoa học đã ứng dụng công nghệ hồ treo “giam” nước trên non cho dân bản, một giải pháp đơn giản nhưng đầy sáng tạo và hiệu quả.

Đặc điểm của công nghệ hồ treo là xác định nguồn nước trong núi, sau đó tiến hành “khai sơn phá thạch” bằng công nghệ khoan đào hoặc nổ mìn đưa nước vào hồ chứa. Đây là công nghệ tạo nguồn và quan trọng nhất đối với hồ treo để “mở cửa” kho nước núi. Vùng núi đá vôi có hiện tượng karst hòa tan, xâm thực và bào mòn đá vôi mạnh tạo thành những hang hốc để nước thấm sâu vào. Những phễu sụt karst có đường kính miệng tới 300-400m, sâu 50-70m được các nhà khoa học chọn làm hồ chứa. Công nghệ xử lý phễu karst là công nghệ quan trọng quyết định mức độ trữ nước của hồ treo. Việc gia cố nền hồ chứa là một công việc gian nan đối với các nhà khoa học và kỹ sư xây dựng. Bên cạnh áp dụng những kỹ thuật thông dụng như san lấp, nổ mìn phá đá, đầm nện, đổ bê tông cốt thép..., các nhà khoa học đã ứng dụng những tiến bộ công nghệ như vật liệu địa kỹ thuật tổng hợp bao gồm vải lọc và màng chống thấm có tác dụng tránh rửa trôi, xói mòn ngầm, chống thấm. Vì đặc điểm hồ treo được xây dựng ở độ cao có cao trình cao hơn khu vực dân cư sinh sống nhằm thuận tiện cho những nơi chưa có điện lưới, buộc các nhà khoa học phải sử dụng công nghệ khoan ngang tạo đường dẫn nước từ phễu karst, qua những gờ núi đá tới khu vực dân cư. Khoan ngang là một công nghệ khó và mới được triển khai trong các ngành mỏ và nước ngầm giúp các kỹ sư không phải nổ mìn phá đá đào kênh. Bên cạnh những khó khăn về địa hình, địa chất, các nhà khoa học còn gặp phải những khó khăn do tập tục, nhận thức của người dân bản. TS Vũ Cao Minh tâm sự, “Khu vực núi đá vôi có rất nhiều phễu karst, và vì vậy phải chọn những phễu thích hợp để làm hồ chứa. Nhưng có một số phễu bà con trồng ngô ở đó và không thể thuyết phục bà con nhổ cây ngô đi để làm hồ chứa”.

Hồ treo Lùm Pè, Thuận Châu, Sơn La

Hồ treo Lùm Pè, Thuận Châu, Sơn La

Đến nay, đã có nhiều hồ treo được hoàn thành và đưa vào sử dụng đáp ứng nhu cầu về nước sinh hoạt và nước tưới cho bà con vùng cao. Ở Hà Giang, chiếc hồ treo đầu tiên được xây dựng thử nghiệmtại bản Xà Phìn B, xã Xà Phìn, huyện Đồng Văn với dung tích khoảng 3000 m3 đã trở thành giải pháp hiệu quả không chỉ dừng ở việc cung cấp nguồn nước mà còn góp phần cải thiện môi trường sinh thái.Sau hồ Xà Phìn, các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu xây dựng hồ treo Tả Lủng, xã Tả Lủng, huyện Mèo Vạc với dung tích 30.000 m3. Đối với hồ treo Tả Lủng, các nhà khoa học đã áp dụng những giải phápkỹ thuật tiên tiến trong việc gia cố đáy, thành hồ để đảm bảo không bị thẩm thấu và đục nước.  Hơn 1000m3 đá vôi được phá nổ, hàng chục hang hốc ngầm, khe nứt có đường kính từ 0,5-1,5m được sanlấp và gia cố bằng vật liệu chống thấm. Ngoài hồ treo Xà Phìn và Tả Lủng, qua thăm dò, phân tích nguồn nước và địa hình, địa chất khu vực Nà Phạ, xã Mậu Duệ, huyện Yên Minh, các nhà khoa học tínhtoán trữ lượng nước nơi đây có thể lên đến 1 triệu m3/năm. TS Vũ Cao Minh cho biết, “Xây dựng hồ chứa nước ngay tại nguồn, nếu khai thác và tận dụng mọi khả năng, có thể cung cấp cho khoảng 3 vạnngười với bình quân 150lít/người/ngày”. Những hồ chứa với công nghệ đặc thù cũng đã được xây dựng ở một số tỉnh phía Bắc khác như hồ treo Lúm Pè, Thuận Châu, Sơn La. Áp dụng những giải pháp gia cố,san lấp các cửa hang thoát nước để hình thành nên một hồ treo nhân tạo trông giống như một “Vịnh Hạ Long” thu nhỏ ở lưng chừng núi.

Sẽ có nhiều hồ treo...

Đối với vùng cao Hà Giang, những chiếc hồ treo đã trở thành nguồn “cứu sinh” giữ chân bà con dân bản ở lại với vùng đất đầy khắc nghiệt, là một nét đẹp văn hóa, đồng thời cũng là nơi kết dính và gặp gỡ của những cộng đồng vùng cao. Việc xây dựng hồ treo không chỉ giải quyết tình trạng khan hiếm nước ở các tỉnh miền núi phía Bắc, thay đổi tập quán dùng nước của đồng bào dân tộc thiểu số mà còn góp phần cải thiện, ổn định đời sống đồng bào dân tộc. Nguồn nước hồ treo trên vùng cao tác động mạnh đến cơ cấu mùa vụ và sắc thái kinh tế cho vùng này đồng thời thúc đẩy các hoạt động du lịch. Về hiệu quả kinh tế trong việc cấp nước sinh hoạt cao gấp10-15 lần so với hình thức xây dựng lu bể chứa nước đang được đầu tư. TS Vũ Cao Minh cho biết, “Kinh phí xây dựng 1m3 lu bể khoảng 0,5-1 triệu đồng trong khi kinh phí xây dựng 1m3 dung tích hồ treo chỉ khoảng 50-100 nghìn đồng”.

Niềm vui lại tiếp tục đến với đồng bào vùng cao, sau chuyến làm việc với tỉnh Hà Giang đầu năm 2007, ghi nhận hiệu quả rõ ràng của hồ treo Xà Phìn và Tả Lủng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã quyết định xây dựng 30 hồ chứa nước bằng công nghệ hồ treo, mỗi hồ khoảng 2-3 tỷ đồng giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính bố trí nguồn vốn để tỉnh thực hiện trong năm 2007-2008.

Về phía các nhà khoa học, TS Vũ Cao Minh cho biết, “Việc triển khai thành công giải pháp hồ treo đã khẳng định khả năng nhân rộng mô hình và tạo cơ sở công nghệ cho việc xây dựng những hồ trữ nước quy mô lớn 7-10 vạn m3, kết hợp cấp nước với phát triển du lịch tắm hồ, nghỉ mát lần đầu tiên cho đồng bào các dân tộc vùng cao nguyên đá và khách du lịch”. “Trong thời gian tới, giải pháp “hồ treo” sẽ được triển khai rộng rãi ở khu vực dân cư kinh tế vùng núi cao đá vôi Hà Giang, Điện Biên, Cao Bằng, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Bắc Cạn, Hòa Bình, Yên Bái, và những khu vực dân cư kinh tế ở các khu vực đồi núi vùng Đông Bắc Bộ, Tây Bắc Bộ, miền Trung, Tây Nguyên và các hải đảo”, TS Vũ Cao Minh cho biết thêm.

Xem Thêm

Nữ tiến sĩ Tây học đầu tiên của Việt Nam
Người phụ nữ này là nữ tiến sĩ Tây học đầu tiên của Việt Nam. Tên tuổi của bà từng nổi đình nổi đám, thậm chí cánh mày râu trước khi gặp cũng phải chuẩn bị lời ăn tiếng nói cẩn thận.
Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Tin mới

CHỦ TỊCH VUSTA PHAN XUÂN DŨNG CHÚC MỪNG NĂM MỚI XUÂN ẤT TỴ 2025
Nhân dip Xuân Ất Tỵ 2025, TSKH Phan Xuân Dũng, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã có bức thư viết tay chúc mừng năm mới gửi tới các Hội thành viên, các tổ chức KH&CN trực thuộc; các nhà khoa học, hội viên, cán bộ, viên chức, người lao động thuộc hệ thống VUSTA. Ban biên tập Vusta.vn xin trân trọng đăng toàn bộ nội dung bức thư.
Hà Giang: Tổng kết hoạt động năm 2024 triển khai nhiệm vụ năm 2025
Ngày 16/01, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) tỉnh Hà Giang đã tổ chức hội nghị Ban chấp hành (BCH) Liên hiệp hội nhằm tổng kết hoạt động năm 2024, triển khai nhiệm vụ năm 2025; tham dự hội nghị có đại diện Ban Dân vận Tỉnh uỷ, một số sở, ngành, hội thành viên Liên hiệp hội tỉnh.
TSKH Nghiêm Vũ Khải: Thách thức lớn của Nghị quyết 57-NQ/TW là thể chế, hạ tầng và nhân lực
Nếu không có một cuộc cách mạng thực sự về khoa học và công nghệ, chúng ta sẽ không thể vượt qua tình trạng tụt hậu. Điều này đòi hỏi sự đầu tư bài bản, định hướng rõ ràng và cam kết lâu dài từ cả hệ thống chính trị, các doanh nghiệp và cộng đồng khoa học.
Gặp mặt cán bộ hưu trí Xuân Ất Tỵ 2025
Ngày 15/1, tại Hà Nội, Liên hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã tổ chức buổi gặp mặt cán bộ hưu trí Xuân Ất Tỵ 2025. Đây là hoạt động thường niên của LHHVN nhằm bày tỏ sự quan tâm cũng như lòng tri ân sâu sắc của lãnh đạo, người lao động cơ quan LHHVN đối với các thế hệ đi trước.
Viết tiếp hành trình trao gửi yêu thương
Trong những năm qua, VUSTA luôn chú trọng thực hiện các hoạt động thiện nguyện, góp phần thực hiện an sinh xã hội. Năm 2024 đã đánh dấu đậm nét những nỗ lực không ngừng nghỉ của VUSTA trong các hoạt động vì cộng đồng. Ngay đầu Năm mới 2025, VUSTA thực hiện chương trình thiện nguyện và xây dựng nông thôn mới, viết tiếp hành trình trao gửi yêu thương tại tỉnh Cao Bằng.
Trà Vinh: 7 nhiệm vụ đặt ra cho công tác thi đua, khen thưởng năm 2025
Công tác thi đua, khen thưởng có vị trí, vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, là biện pháp để tố chức thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Thông qua việc tổ chức các phong trào thi đua nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các tập thể, cá nhân, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị được giao.