“Dũng cảm nhận đã thất bại mới mong sửa thành công”
Luật Phòng, chống tham nhũng được thông qua cách đây bảy năm. Chắc nhiều người còn nhớ lúc đó không chỉ trong Quốc hội mà toàn dân đều phấn khởi hi vọng rằng, chúng ta rèn một thanh thượng phương bảo kiếm để phen này dẹp tan quốc nạn. Từ đó đến nay, hằng năm đều tổng kết, đánh giá, thấy chưa thể hài lòng nhưng đều cho rằng từng bước Luật đã đi vào cuộc sống. Một số vụ việc được phát hiện, đưa ra xét xử, song đến nay chúng ta thấy quốc nạn dường như ngày càng trầm trọng.
Tôi vẫn nhớ phát biểu của mình cách đây bảy năm, khi phân tích rằng về lí thuyết, thì ở nước ta chống tham nhũng là dễ nhất, bởi lẽ, cũng như chống dịch bệnh, khoanh được nơi dịch bệnh khu trú là đã thành công hơn nửa. Như định nghĩa trong Luật, tham nhũng chỉ có ở những người có quyền, cụ thể hơn là có quyền định đoạt tài sản công, ngân sách, đất đai, dự án, v.v… trong cơ chế chính trị nước ta muốn có quyền chức thì phải là đảng viên và đảng viên có quyền chức càng cao thì nguy cơ nhiễm bệnh càng lớn, phải có sức đề kháng rất mạnh mới không lây nhiễm. Như thế cũng có nghĩa là chống tham nhũng chính là bảo vệ Đảng.
Hồi đó tôi rút tít cho bài phát biểu của mình bằng câu điệp khúc thiêng liêng “đấu tranh đây là trận cuối cùng”. Vậy mà trận cuối cùng trường kì đã bảy năm vẫn chưa có thành quả. Những kiểm điểm nghiêm khắc, thẳng thắn vừa qua của Đảng và quyết sách tự phê bình và phê bình tự nó nói lên rằng Luật hiện hành đã không có hiệu quả.
Sửa Luật lần này phải đánh giá cho đúng Luật đã thông qua năm 2005 và nếu dũng cảm nhận đã thất bại mới mong sửa thành công. Mà thất bại dường như được báo trước nếu ta nhớ rằng, khi thảo luận Dự Luật năm 2005 dư luận xã hội và ngay trong diễn đàn Quốc hội nhiều lần nhắc đến thành ngữ “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, khi đưa ra cơ chế đứng đầu cơ quan phòng, chống tham nhũng lại chính là cơ quan hành pháp. Vậy mà chính Quốc hội lúc ấy vẫn bấm nút thông qua.
Nhắc lại điều tôi đã phát biểu từ năm 2005 chính là trách nhiệm của Quốc hội. Điểm mấu chốt trong lần sửa này cũng chính là điểm vừa nêu, nay không giao cho Chính phủ mà lại giao cho Đảng, vì thế mà tinh thần tự phê bình và phê bình cũng phải được thấm nhuần ngay trong Quốc hội. Quốc hội phải đồng chịu trách nhiệm về Dự án Luật lần này phải mang ra sửa lại, lãng phí thời gian sáu năm với biết bao nhiêu tổn hại. Vì nếu Luật 2005 thực hiện tốt hẳn sẽ không có Vinashin, Vinaline.
Nhìn lại bảy năm qua, việc chống tham nhũng tựa như đánh trận giả, kế hoạch tác chiến rất hoành tráng, lực lượng huy động rất hùng hậu, mệnh lệnh ra quân rất dứt khoát và lại được nhân dân cổ vũ mạnh, vậy mà khi lâm trận, súng nổ rất to nhưng không sát thương được ai, vì đạn không có “đầu”. Quan trọng hơn là quân xanh hay quân đỏ đều là quân ta cả.
Chỉ có một số vị vụng về nên bị lộ hay bị dư luận báo chí phát hiện mới bị xử lí như “gặp hạn”. Chúng ta từng phải chứng kiến người đã bị kết án vào tù lại trở ra như người được giải oan. Người hăng hái đánh phá tham nhũng lại bị phát hiện là kẻ tội đồ bị trả đũa. Không nhắc lại những điều đau xót ấy thì e rằng lần này sửa luật sẽ rất dễ lại nửa vời.
Trở lại với dự án sửa đổi được đưa ra, Điều 73 Luật hiện hành đã bị bỏ, để lộ một khoảng trống cho thấy cuộc đấu tranh này chưa có đầu não được ghi trong Luật, cho dù ai cũng biết rằng chủ trương đã thành Nghị quyết của Đảng là sẽ giao việc này cho ai và cho đâu? Trong khi đó Điều 72 được giữ lại thành Điều 86 vẫn quy định như cũ, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm áp dụng luật này và các luật khác liên quan để tổ chức phòng, chống tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lí. Vậy người đứng đầu là ai, là Giám đốc hay Bí thư?
Không nhắc đến Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng Trung ương trong Luật nhưng nhiều điều luật vẫn nói đến vai trò của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, của tổ chức Đảng. Nhân nói đến cơ quan đứng đầu trong khi thảo luận đã có nhiều ý kiến đưa ra là cần thành lập một cơ quan mang tính độc lập nằm ngoài hay trong nhưng do Quốc hội bổ nhiệm mặc dầu ai cũng biết rằng dưới gầm trời nước ta thì ở đâu cũng có sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư, là Bộ Chính trị.
Xin nhắc lại một câu chuyện lịch sử. Năm 1945, ngay sau khi kí sắc lệnh thành lập cơ quan hành pháp của quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng kí sắc lệnh thành lập các cơ quan dân cử ở các địa phương để giám sát bộ máy hành chính và hành pháp nhưng ở cấp cao nhất, Người đã ra Sắc lệnh thành lập hai cơ chế là Ban Thanh tra đặc biệt và Tòa án đặc biệt đều nhằm điều chỉnh đối tượng là những thành viên của bộ máy hành pháp. Tòa án đặc biệt do Chủ tịch nước làm Chánh án và Bộ trưởng Nội vụ làm thẩm phán, chuyên xét xử các quan chức cao cấp vi phạm luật pháp với những bản án nghiêm khắc mà không tái phạm.
Còn Ban Thanh tra đặc biệt thì Chủ tịch nước đích danh chỉ định, tức là mời cụ Bùi Bằng Đoàn, cựu Thượng thư Bộ Hình của chế độ cũ vì đó là người am hiểu pháp luật lại có uy với dân. Người thứ hai là nhà thơ Cù Huy Cận được giới thiệu là người trẻ tuổi lại có danh vọng trong dân. Cho dù những cơ chế này chưa phát huy được bao nhiêu vì sau đó chiến tranh bùng nổ, nhưng ý tưởng tạo ra một cơ chế thích hợp, bảo đảm tính khách quan và nghiêm minh, được lòng dân mà Cụ Hồ đưa ra là một nguyên lí chúng ta phải học.
Từ 92 điều luật hiện hành của Luật sửa đổi nâng lên thành 102 điều, trong đó dành rất nhiều cho việc thực hiện sự minh bạch công khai, nội dung rất chi tiết nhưng tính khả thi vẫn còn là một dấu hỏi? Thử hỏi vào thời điểm này một nhân viên cơ quan có thể công khai đọc bản kê khai tài sản của sếp rồi tìm tòi, phát hiện để yêu cầu sếp cung cấp thông tin như Điều 36 Luật Sửa đổi đã quy định mà vẫn giữ được chỗ ngồi của mình hay không?
Và có muốn tìm tòi cũng khó, vì chúng ta đang sống trong nền tài chính lạc hậu, tiêu tiền mặt, chưa hề quản lí và đánh thuế tài sản lại có những mối quan hệ xã hội nhằng nhịt đến mức yêu cầu phải “bắt tận tay day tận trán” việc đưa tiền mặt cho nhau thì mới đủ quy kết về tội hối lộ thì mọi sự minh bạch quy định trong luật là điều khó thực hiện. Nói như vậy không phải là thoái chí hay bó tay.
Rõ ràng trong dự thảo sửa đổi lần này ta vẫn chưa khai thác cái nhân tố mà trong mọi tổng kết đã thừa nhận, đó là vai trò của dư luận xã hội, mà hạt nhân là báo chí. Trong khi thừa nhận rằng, bộ máy chính quyền rất hạn chế trong việc phát hiện tham nhũng, còn phần lớn số vụ việc là do nhân dân và do nhà báo phát hiện.
Lẽ ra trong Luật sửa đổi ta phải khai thác thế mạnh đã được chứng minh thì trong văn bản, Điều 9 về trách nhiệm cơ quan báo chí vẫn giữ nguyên như cũ nhưng ở Điều 99 của Luật sửa đổi có nhắc lại vai trò trách nhiệm của báo chí thì điều bổ sung lại đòi hỏi cơ quan báo chí, phóng viên đưa tin về hành vi chống tham nhũng có trách nhiệm cung cấp nội dung, thông tin, tài liệu cho người đứng đầu Viện Kiểm sát, Tòa án địa phương để phục vụ xác minh, làm rõ hành vi tham nhũng y như đối xử với người dưới quyền của mình, trong khi không hề có biện pháp bảo vệ an toàn cho các nhà báo, cơ quan báo chí.
Lẽ ra phải là sự cộng tác có trách nhiệm thì trong luật lại là sự ràng buộc những điều kiện khiến cho các nhà báo tỏ thái độ tốt nhất là đừng dính vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng để “nghỉ cho khỏe” lại tránh được những cạm bẫy nguy hiểm.
Nói cách khác, nếu chúng ta nhận thấy vũ khí sắc bén của báo chí thì thay vì mài cho sắc nay ta lại giũa cho cùn. Những biện pháp để bảo vệ nhân chứng hầu như vẫn chưa được khuyến khích để người dân có trách nhiệm vào cuộc.
Tóm lại, điểm mấu chốt để cho lần sửa đổi này có thể mang lại hiệu quả thiết thực, dù không ảo tưởng rằng nó sẽ giúp chúng ta diệt tham nhũng đến tuyệt chủng ngay lập tức mà phải với tinh thần “trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi” thì phải có một đầu não trong sạch, kiên cường như hình tượng lí tưởng Bao Công, phải mở ra một mặt trận rộng rãi trong nhân dân, trong đó có báo chí vào cuộc, cũng có nghĩa là phải củng cố được lòng tin thì mới vào trận được. Đáng tiếc đó là điều chưa thấy rõ lắm trong bản dự thảo lần này.
Dương Trung Quốc








