Đóng góp khoa học của một nhà văn
Chúng ta thử hình dung thế này: nếu thiếu đi mảng văn học miền núi thì văn học Việt Nam hiện đại sẽ như thế nào? Câu trả lời chắc chắn là: nghèo đi và đơn điệu!
Đúng vậy. Với đặc điểm là một quốc gia đa dân tộc, có tới ba phần tư diện tích là miền núi, nước ta cũng có nền văn học mang đặc điểm tương ứng - một nền văn học đa dân tộc, và miền núi trở thành một trong những đề tài văn học lớn. Chưa xét tới tác phẩm, chỉ kể tên tác giả là người dân tộc thiểu số ở miền núi hoặc là người Kinh viết về miền núi từ 1945 đến nay cũng nói lên điều ấy: Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Nguyễn Tuân, Nguyễn Thành Long, Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Y Phương, Inrasara, Nguyễn Huy Thiệp, Trung Trung Đỉnh, Phạm Duy Nghĩa, Đỗ Bích Thuý… Riêng tôi lại thấy một đặc điểm này: không phải cứ viết về miền núi là sẽ trở thành tài năng nhưng những người được coi là tài năng thì thường có những trang viết hay về miền núi. Xin không chứng minh bằng văn học nước ngoài, mà ngay ở xứ ta. Thế Lữ ngoài ngôi vị đệ nhất thi đàn trước 1945 còn nổi tiếng thêm nhờ truyện đường rừng. Làm nên tên tuổi Tô Hoài cũng phần lớn là các tác phẩm về miền núi, trong đó có chùm truyện Tây Bắc. Phong cách Nguyễn Tuân sẽ kém phần độc đáo nếu thiếu đi tùy bút Sông Đà. Nguyên Ngọc và Trung Trung Đỉnh sẽ chẳng ghi tên vào văn học sử nếu không có những tác phẩm để đời về Tây Nguyên. Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, ngoài những trang viết hay về thành thị, miền xuôi, suốt đời các ông vẫn phải tri ân miền núi…
Người viết bài này lại xin được cắt nghĩa bằng vốn sống của một người Kinh có mười năm sống ở miền núi Lai Châu: miền núi sở hữu một không gian hấp dẫn, bí hiểm, đầy chất thơ. Nó luôn ở hai đối cực lôi cuốn bất cứ ai muốn khám phá: hiểm trở, dữ dội, hung bạo, độc ác và trữ tình, mơ mộng, êm đềm, yêu thương. Ngoài sự mê hoặc của thiên nhiên, nó còn quyến rũ bởi con người với những nét tính cách cùng phong tục tập quán lạ. Và cũng chính miền núi là cái nôi của cách mạng, cái nôi của chiến thắng. Có thể khẳng định miền núi luôn là địa bàn chiến lược, đồng bào các dân tộc miền núi có những đóng góp vĩ đại để làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Chúng tôi đặt vấn đề như vậy để nói tới tập chuyên luận của Phạm Duy Nghĩa mang tên Văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi. Đây là một đề tài nghiên cứu đích đáng, quan trọng hơn nó được thể hiện một cách đích đáng trong nghĩa phê bình vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Đây có thể coi là một công trình nghiên cứu hệ thống, công phu để lột tả cái tinh thần, cái bản chất, chỉ ra một cách thuyết phục thành tựu và hạn chế, gọi ra những phong cách tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi. Chuyên luận có một kết cấu lôgic trong độ dài hơn 300 trang với 4 chương: Diện mạo văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi; Văn xuôi miền núi nhìn từ các bình diện về con người; Nghệ thuật văn xuôi miền núi và vấn đề truyền thống - hiện đại; Nhận diện một số phong cách văn xuôi miền núi. Cái tâm huyết của tác giả trước hết là sự giám khảo cẩn trọng, đầy đủ các công trình nghiên cứu cũng như các sáng tác văn xuôi về miền núi. Cái năng lực là trình bày một bức tranh tổng quát, toàn cảnh về văn xuôi miền núi với cả núi cao và vực sâu, cận cảnh và viễn cảnh, cây cao bóng cả và những nhành non. Tác giả dẫn lối đi vào một khu rừng văn học bề thế, dày rậm với mục đích cho người đọc vừa thấy cây, vừa thấy rừng, để thưởng lãm và làm giàu thêm cho mình kiến văn về miền núi và dân tộc.
Sức thuyết phục của một công trình khoa học là đặt ra vấn đề mới và giải quyết vấn đề trong tính hợp lý của nó. Cái mạch bản chất có lý ở chuyên luận này là đi tìm các kiểu quan hệ người được thể hiện trong văn xuôi miền núi. Nó đặt con người miền núi vào các quan hệ để tìm ra mối liên hệ bản chất: quan hệ với xã hội, với văn hoá, với tự nhiên. Đây có thể coi là những quan hệ chiều ngang, bề nổi mà chuyên luận đã tập trung mô tả cụ thể. Không chỉ có thế, còn làm nổi lên cái quan hệ chiều dọc, chìm vào bên trong, là cái ứng xử với bản năng. Sống giữa thiên nhiên thuần khiết, con người như được trở về với cái nguyên thuỷ nên rất mạnh về bản năng. Một nét riêng của văn xuôi miền núi là tái hiện độc đáo cái bản năng – đặc điểm này được chuyên luận quan tâm phân tích, lý giải.
Lấy quan niệm về con người làm điểm tựa, tác giả chuyên luận đi giải quyết hai vấn đề cốt lõi của khu vực văn xuôi miền núi là nghệ thuật và bản sắc dân tộc. Văn xuôi miền núi có bộ mặt nghệ thuật như thế nào, qua từng giai đoạn, văn xuôi cách mạng và văn xuôi đổi mới có gì khác với văn xuôi trước 1945 được thể hiện trong dáng dấp truyền kì với truyện đường rừng của Lan Khai, Tchya… được chuyên luận phân tích, chỉ ra thành tựu và hạn chế ở ba phương diện cơ bản là nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ. Nhấn mạnh vào mặt hạn chế, khác với nhiều công trình thiên về khen ngợi một chiều, thái độ sòng phẳng này của tác giả chuyên luận theo tôi là rất đáng ghi nhận.
Ai đã sinh sống ở miền núi cao đều quen thuộc với những lối mòn. Đúng như câu nói của một nhân vật trong truyện ngắn Cố hương của Lỗ Tấn, xưa nay vốn không có đường, người ta đi lâu mà thành đường. Đi mãi thành quen, đến mức không thể đi lối khác dù lối mới ấy nhanh hơn. Cái tập quán “quen lối” của người miền núi này xảy ra tương tự trong lao động của nhà văn - với một số nhà văn, hình như không đi theo một công thức, một “lối mòn” thì không viết được. Việc chỉ ra nhược điểm này, ở ngay cả tác phẩm của những nhà văn lớn, tài năng, theo tôi cũng thể hiện một thái độ công tâm của người viết chuyên luận.
Một trong những nhân tố mang tính hạt nhân thúc đẩy tiến trình văn học của bất kỳ khu vực văn học nào là vấn đề truyền thống và hiện đại. Ở khu vực văn học dân tộc và miền núi, vấn đề này đặt ra càng cấp thiết hơn. Hiểu rõ điều ấy, tác giả chuyên luận đã công phu khảo sát, trên cơ sở đó đi tìm các biện pháp góp phần đổi mới văn xuôi miền núi; đổi mới, hoà nhập nhưng vẫn giữ được và làm giàu thêm bản sắc. Theo tôi, đây là vấn đề mang tính chiến lược, không chỉ quan trọng đối với giới sáng tác và nghiên cứu phê bình văn học, mà còn là ý kiến trong tư cách chuyên gia rất đáng được lưu tâm đối với các nhà quản lý văn nghệ.
Có thể hình dung ngôi nhà văn xuôi miền núi vững vàng bề thế là nhờ bốn cái cột chống lực lưỡng. Trong chuyên luận, đây là bốn phong cách tiêu biểu: Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Vi Hồng - bốn cây đại thụ mà mỗi cây tỏa bóng che rợp một cánh rừng, đủ cả Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên, cả nhà văn dân tộc Kinh, cả nhà văn dân tộc thiểu số. Bản thân cũng là người viết văn xuôi về miền núi, nên tác giả chuyên luận dễ tìm được sự đồng cảm trên các trang viết và gọi ra được cái “hồn vía”, cái tạng của mỗi nhà văn. Mặc dù họ đều là những cây bút lớn, quen thuộc, đã được nghiên cứu nhiều, nhưng trong cuộc đi tìm lại họ trên những lối mòn này, ngoài những cái nhìn chung, người viết chuyên luận vẫn có phát hiện riêng, có đóng góp.
Ngòi bút văn xuôi Phạm Duy Nghĩa mang một phẩm chất rất miền núi là đậm đà chất thơ. Ngòi bút nghiên cứu Phạm Duy Nghĩa cũng thấm đượm chất thơ này, thể hiện ở lối lập luận chặt chẽ mà uyển chuyển, ở những phát hiện tinh tế nhiều cảm xúc, ở ngôn ngữ phân tích giàu hình tượng. Những trang nghiên cứu vừa không xa rời tính khách quan khoa học vừa mềm mại chất văn như tập chuyên luận này, thường chỉ thấy được ở một người sáng tác.
Tôi cũng cho rằng để viết cuốn sách này, khi mảng văn học miền núi vốn chưa được giới phê bình quan tâm đúng mức, thì chỉ có một người đích đáng, thích hợp, là Phạm Duy Nghĩa, một người hội tụ đầy đủ những yếu tố cần thiết: là người miền núi (lớn lên ở Yên Bái, trưởng thành ở Lào Cai), là nhà văn viết về miền núi với những truyện ngắn đặc sắc, từng đoạt khôi nguyên truyện ngắn Tuần báo Văn nghệ. Và anh còn là nhà báo quân đội rất mực cẩn trọng, kĩ lưỡng trong công tác biên tập; là nhà giáo - tiến sĩ văn học tham gia giảng dạy ở bậc đại học, sở hữu những đức tính: tâm huyết, chân thành, nghiêm cẩn, trung thực.








