Đồng bào Tày, Nùng với nghệ thuật hát then
Một năm có mười hai tháng xoay vần
Bướm ong được nô đùa với hoa
Trai gái gần xa về xem hội
Tung còn đi, tung còn lại với nhau
Ước gì chúng ta được thành duyên
Em bảo anh họ tên em cho anh biết
Đến mùa phát nương trồng ngô
Em không làm kịp, anh về làm hộ…
Tiếp theo là những câu hát chúc mừng mọi người thêm một tuổi nhân năm mới, chúc gia đình hạnh phúc và gặp nhiều may mắn.
Bà then, nhân vật chính trong hát then, thường là một phụ nữ đứng tuổi nhưng vẫn còn lanh lợi, yêu đời, đàn ngọt hát hay, được coi là biểu tượng của người phụ nữ Tày, Nùng dịu dàng, đằm thắm, đảm đang và giàu trí tuệ. Không những đàn hát giỏi, bà còn múa đẹp vì then là nghệ thuật tổng hợp của thơ ca, âm nhạc và vũ đạo dân gian. Bà then biểu diễn rất thành thạo nhiều khúc nhạc truyền thống như tàng bốc (đi đường), khảm hải (chèo thuyền), pây mạ (cưỡi ngựa), lưu thuỷ (nước chảy), cao sơn (núi cao), mẻ bijioóc (mẹ hoa), pây ương (chim uyên ương)… Trong hát then, người nghe say sưa với những làn điệu dân ca đối đáp giữa thanh niên nam nữ, nhiều khúc ca phản ánh sinh hoạt văn hóa cộng đồng như: lượn sli, lượn cọi, lượn nàng ới, phong slư…
Đặc biệt điệu lượn nàng ới (hay còn gọi là lượn nàng Hai) được trai gái trong làng hát nhân dịp lễ tiến cốm đêm rằm trung thu. Về sự tích làn điệu này, bà then kể rằng: Ngày xưa có cô tiên tên là nàng Hai sống cô đơn lạnh lùng trên cung trăng. Nàng chỉ chờ dịp nghe thấy tiếng lượn “nàng ới” là trốn Ngọc hoàng giáng trần thi hát với đám con trai. Nàng chỉ về trời khi tuần trăng đã hết, để mang trong lòng nỗi tiếc nuối, nhớ thương.
Hát then cũng được tổ chức trong hội xuân, bàn then thường bưng mâm hoa quả, cất tiếng ca mở đầu:
Năm cũ đã qua
Bước ra năm mới
Năm nay mở hội mùa xuân…
Những nhà làm lễ thượng thọ cho ông bà hay cha mẹ thường mời bà then đến hát chúc thọ. Trong dịp này, các vị già lão khác trong làng cũng đến làm thơ, đặt bài hát mừng. Các cụ rất ưa chuộng nghệ thuật hát then, nên thường có câu:
Người già qua đường nghe tiếng lượn then
Về nhà tóc bạc biến thành đầu xanh trai trẻ
(Ké quá tàng nghì tiếng lượn then
Mưa rườn tăng piến bầu báo ón).
Người ta không chỉ tổ chức hát then để chúc thọ, mà còn mời bà then đến hát để cầu tự nếu gia đình muộn mằn về đường con cái. Bà then vừa hát vừa múa, thay mặt gia chủ cầu xin vị thánh mẫu trông coi đường tình duyên và hậu duệ:
Hoa vàng sẽ hái được đầy túi
Đừng để rơi đầu núi lưng đèo
Hoa nào thơm nhất sẽ về
Hoa nào tươi lâu sẽ hái
Hoa nào héo thì thôi
Hãy đưa đi biệt xứ…
Những khi mưa nắng không thuận hoà, xảy ra nắng hạn hoặc mưa lũ khiến mùa màng thất bát, đe doạ cuộc sống của làng bản, người ta cũng tổ chức hát then cầu xin thần Nông sai thần Mưa hoặc thần Nắng điều chỉnh thời tiết để con người khỏi đói kém, tật bệnh. Dân làng cầu mùa trên một thửa ruộng khô bên bờ suối, tiến hành bảy lễ tiết: lễ xuống đồng; lễ gieo mạ; lễ lúa lên đồng; lễ tảo trùng; lễ mừng sân lúa; lễ hội mùa; lễ tiến cốm (hay lễ dâng gạo mới).
Đồng bào mong thu về thóc lúa đầy bồ, ăn quanh năm chẳng hết, và mọi người ao ước:
Hạt bằng đấu bảy - hạt bằng đấu ba - hạt bằng trứng gà - hạt bằng trứng vịt - hạt nào bé nhất - bằng lọ bình vôi - hạt nào võ đôi - bằng vò gánh nước…
Lúc hát làn điệu của trai gái đối đáp, bà then mượn lời người con trai:
Em ơi? Thân em như lá chuối trước vườn
Lá chuối cắt rời tay liền héo
Thân anh như lá dong phơi trên đèo vẫn xanh
Có khi bà then đóng làm người con trai miền xuôi lên Cao Bằng ngỏ lời với cô gái Tày bằng tiếng địa phương:
Cao Bằng đẩy quá, noọng ơi
Chầu ai dú mại, khỉn khơi bán mừa
(Cao Bằng đẹp lắm em ơi
Anh muốn ở rể chẳng rời nhà em).
Tiếp theo là mấy câu hát đố:
Cái gì đo đỏ đằng đông?
Cái gì đỏ lòng, cái gì đỏ môi?
Cái gì thì nó có đôi?
Cái gì vừa nồi, cái gì vừa vung?
Và đây là câu câu giải đố: Mặt trời đo đỏ đằng đông
Trứng kia đỏ lòng, trầu nọ đỏ môi.
Đôi đũa thì nó có đôi,
Vung kia vừa nồi, nồi nọ vừa vung…
Có khi bà then hát về bốn mùa, mười hai tháng trong năm:
Tháng giêng, ăn ngon nhiều gia vị
Tháng hai, hoa đào nở đón xuân sang
Tháng ba, hoa cây càng toả nắng
Tháng tư, qua con đàn tiếp đàn
Tháng năm, chị ve sầu gọi nắng
Tháng sáu, bạn tình vừa nửa năm
Tháng bảy, khỉ trên cây ăn quả
Tháng tám, trung thu trăng sáng tỏ
Tháng chín, cầm liềm đi gặt lúa
Tháng mười, mọi nhà có gạo mới
Tháng mười một, ăn xong đi xem số
Tháng mười hai, tìm được ngày lành đi ăn hỏi
Tháng giêng, hai ta cưới nhau
Nàng xuân chẳng thoát đi đâu được.
Trong các bài hát tỏ tình, nhiều khi bà then một mình đối đáp, đóng cả vai nam lẫn vai nữ. Trong khi trình diễn, bà kiêm công việc của ca sĩ, nhạc công, vũ nữ, người kể cổ tích… Hát then ngày nay được nhiều nhà sáng tác âm nhạc khai thác, làm phong phú cho kho tàng nghệ thuật dân tộc.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 80, 7/2005, tr 5, 6








