Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 15/05/2008 16:26 (GMT+7)

Đổi mới việc dạy và học lịch sử ở trường phổ thông

Đối với việc dạy và học sử ở các trường phổ thông, điều quan trọng nhất là phải khôi phục lại “vị trí môn học”, không thể để môn sử bị “xem thường” như hiện nay. Điều này hoàn toàn đi ngược với truyền thống “hết sức coi trọng lịch sử trong giáo dục con người” của tổ tiên ta. Không phải vô cớ mà Bác Hồ trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, từ lúc đi tìm đường cứu nước đến khi là người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, luôn xem lịch sử là vũ khí cực kỳ sắc bén của cách mạng và Người đã sử dụng tốt nhất vũ khí này để tuyên truyền cách mạng, giáo dục nhân dân. Những người soạn thảo chương trình học ở phổ thông cần chú ý, tại sao ở Mỹ (một nước mới có trên 2 thế kỷ lập quốc!) hiện nay người ta xem ba môn cơ bản, bắt buộc học (“required courrses”) ở trung học là Toán, Văn và Sử; tại sao họ có thể bố trí học sinh học môn sử 4 – 6 tiết một tuần, còn ở Việt nam thì cao nhất chỉ là 2 tiết một tuần (ở lớp 12), còn lại chỉ là 1 tiết một tuần. Thời lượng như vậy là không đủ để giáo viên truyền đạt sâu và học sinh hiểu sâu sắc các nội dung bài học. Giáo viên phổ thông thường than phiền rằng thời lượng này chỉ đủ cho học sinh ghi “tóm tắt bài học” và giảng một cách hết sức tổng quát như là “Cưỡi ngựa xem hoa”. Chúng ta cần rà soát lại khung chương trình, nội dung kiến thức theo hướng giảm tải, điều chỉnh cơ cấu, để tăng cường thời gian học tập một số môn hết sức quan trọng, trong đó có lịch sử. Không phải bất cứ kiến thức nào, môn học nào cũng đưa vào chương trình phổ thông. Phải chăng nên phân thành hai loại môn học ở phổ thông, “môn tự chọn” và “môn bắt buộc”; toán, văn, sử là ba môn bắt buộc, còn lại là những môn tự chọn. Cách chuyển đổi này cũng rất phù hợp với dự định của ngành giáo dục hiện nay là sẽ xét tuyển vào đại học dựa vào kết quả học tập ở phổ thông, nhất là kỳ thi tốt nghiệp phổ thông. Đổi mới này chắc chắn sẽ là một trong những cách hữu hiệu nhất để nâng cao được vị trí của môn Sử trong trường phổ thông và khuyến khích không khí dạy và học sử ở trường phổ thông. Ở nước ta hiện nay, phần lớn những học sinh dự định theo học những ngành kỹ thuật và khoa học tự nhiên đều không quan tâm đến việc học sử, họ chỉ cố gắng đạt được điểm trung bình để tốt nghiệp. Điều này rất dễ hiểu bởi vì kết quả học sử ở phổ thông không ảnh hưởng gì đến việc thi vào đại học của những học sinh này.

Đồng thời với việc khôi phục vị trí môn lịch sử trong trường phổ thông, ngành giáo dục phải hết sức tập trung đào tạo và đào tạo lại đội ngũ giáo viên dạy sử trong toàn quốc và xem đây như là một trong những việc lớn của chiến lược giáo dục Việt Nam cho đến năm 2020. Phải có chính sách đầu tư đích đáng để đổi mới việc nghiên cứu, dạy và học chuyên ngành lịch sử ở bậc đại học và phát triển mạnh các khoa Lịch sử của hai trường ĐHKHXH&NV ở hai Đại học Quốc gia Hà Nội và TP. HCM và ở các trường Đại học Sư phạm trên cả nước, hình thành một mạng lưới mạnh cho việc đào tạo và nghiên cứu lịch sử ở các trường đại học, làm nòng cốt cho việc dạy và học sử trên cả nước. Phải cố gắng trang bị cho sinh viên khả năng tận dụng những thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ vào học tập và nghiên cứu lịch sử; đổi mới phương pháp giảng dạy “lấy người học làm trung tâm”, tăng cường seminar, tranh luận, tự nghiên cứu... Phải kiên quyết lấy điểm chuẩn tuyển sinh cao, không chạy theo số lượng, nhằm chọn lọc được những sinh viên ưu tú và say mê sử học, đặc biệt chú ý đến hệ cử nhân tài năng trong ngành sử. Phải có một chương trình dài hạn nhằm không ngừng bổ sung kiến thức và phương pháp giảng dạy lịch sử cho đội ngũ giáo viên phổ thông. Mỗi năm vào mùa hè ngành giáo dục nên tổ chức nhiều loại hình học tập linh hoạt, hiệu quả nhằm nâng dần chất lượng và lòng yêu nghề của đội ngũ giáo viên môn sử, tương tự như cách ngành giáo dục đang làm đối với đội ngũ giảng viên các môn Khoa học Mác - Lênin. Phải hết sức chú ý khuyến khích giáo viên dạy sử ở phổ thông tiếp tục học sau đại học, đạt được trình độ thạc sĩ, tiến sĩ Lịch sử. Dĩ nhiên, đòi hỏi ngày tuy rất khó thực hiện rộng rãi, nhưng nếu có chủ trương của ngành giáo dục thì trong điều kiện hiện nay các trường phổ thông ở các thành phố hoàn toàn có thể phấn đấu đạt khoảng 10 - 20% giáo viên dạy sử có trình độ sau đại học. Ngoài ra, các trường phổ thông có thể hợp đồng thêm với đội ngũ các nghiên cứu sinh đang chuẩn bị luận án tiến sĩ Lịch sử để bổ sung cho lực lượng giáo viên và đa dạng hoá lực lượng giảng dạy sử. Phải chú ý cải tiến sinh hoạt của các Tổ bộ môn Sử ở các trường phổ thông sao cho sinh động, hiệu quả, nhằm không ngừng nâng cao năng lực sư phạm của giáo viên. Tổ chuyên viên phụ trách môn Sử ở Sở Giáo dục và Đào tạo ở các địa phương phải cải tiến nội dung và phương pháp làm việc sao cho có thể tham mưu cho việc quản lý giảng dạy môn sử thật tốt ở các trường phổ thông. Hội Khoa học Lịch sử ở trung ương và các tỉnh, thành phố nên chú ý lôi cuốn đội ngũ giáo viên dạy sử gia nhập hội và có nhiều phong trào giúp họ nâng cao trình độ học thuật và phương pháp giảng dạy lịch sử.

Sách giáo hoa lịch sử ở phổ thông hiện nay chất lượng rất kém cả về nội dung và hình thức, không đủ sức làm chỗ dựa cho học sinh học tốt môn sử. Chỉ cần làm một so sánh nhỏ giữa sách giáo khoa của ta và của Mỹ (cụ thể ở đây là sách giáo khoa The American Pageant,volume I, to 1877 và volume II, since 1865, được dùng cho học sinh lớp 11, trường trung học Brentwood ở Los Angelès và sách giáo khoa lịch sử ở lớp 11 của Bộ GD&ĐT Việt Nam) thì có thể thấy rõ những yếu kém về sách giáo khoa Sử của ta.

Sách giáo khoa của Mỹ có độ dày của hai tập là 1679 trang, còn của ta chỉ có 128 trang. Một học sinh đã từng học lớp 11 của Mỹ đã cho nhận xét rất đáng lưu ý rằng: “Văn phong sách của ta rất khô khan, thiếu hình ảnh, đọc dễ buồn ngủ; trong khi đó đọc sách lịch sử lớp 11 của Mỹ rất hấp dẫn, nhiều hình ảnh, thậm chí có cả những bài thơ lịch sử có liên quan đến bài học...”. Thật vậy, nếu chúng ta đi vào bố cục từng bài học được trình bày ta có thể chấp nhận ý kiến của học sinh này là đúng. Trong từng bài học trong sách giáo khoa của Mỹ đã nói trên, bên cạnh những đoạn văn trình bày nội dung thường có nhiều hình ảnh, bản đồ, đồ biểu minh hoạ rất ấn tượng; cuối bài thường có niên biểu tóm tắt các sự kiện chính và một minh hoạ quan điểm khác với quan điểm đã trình bày trong bài học (“varying viewpoints”), cùng thông tin hướng dẫn đọc thêm ở phụ lục cuối sách và địa chỉ trang web liên quan để học sinh đọc thêm. Không đi sâu phân tích về nội dung khoa học, nhưng theo tôi nội dung của từng trang sách giáo khoa nói trên của Mỹ được viết hết sức cẩn thận, công phu, nghiêm túc, nhiều thông tin hơn sách của ta rất nhiều. Chắc chắn rằng tác giả những trang viết này phải đầu tư rất nhiều thời gian để viết.

Để đổi mới dạy và học lịch sử ở phổ thông, đặc biệt là để có sách giáo khoa lịch sử tốt, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như các cơ quan, viện nghiên cứu lịch sử, các trường đại học phải “vào cuộc”. Bổ phải có chiến lược soạn sách giáo khoa. Có lẽ một trong những hạn chế lớn của ta trong việc này là đầu tư cho việc soạn sách giáo khoa còn quá nhỏ bé, thời gian gấp rút, chưa tạo điều kiện đủ để các nhà sử học lớn tập trung đầu tư cho công việc này. Hơn nữa, mặc dù nền sử học Việt Nam mấy mươi năm qua đã có nhiều thành tựu lớn, nhưng chúng ta không được chủ quan, tự bằng lòng với những thành tựu của ngày hôm qua, mà phải đổi mới sâu sắc để có những công trình sử học tốt nhất làm chỗ dựa cho việc hình thành hệ thống sách giáo khoa lịch sử có chất lượng cao nhất ở các bậc học, trong đó có bậc phổ thông. Không có những công trình nghiên cứu tốt, không thể có sách giáo khoa tốt được. Chúng ta phải cố gắng hơn nữa trong vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Kinh nghiệm cho thấy vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin là chỗ mạnh của sử học mác - xít, đồng thời việc bảo thủ, tả khuynh, giáo điều, đơn giản, phiến diện... trong khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin như là cơ sở phương pháp luận của sử học mác - xít cũng là một trong những nhược điểm chủ yếu cần đổi mới và cũng chính là điểm khó khăn vào bậc nhất của công cuộc đổi mới sử học. Các nhà sử học phải cố gắng cập nhật được những kiến thức hiện đại nhất, cập nhật nhất, phải cố gắng thừa kế những thành tựu của nền sử học các nước phát triển trên thế giới để có thể vượt qua họ, nhất là những nghiên cứu về lịch sử Việt Nam. Để đáp ứng những yêu cầu lớn lao mới, Sử học nước ta phải vừa củng cố những chuyên ngành truyền thống, vừa mở rộng lĩnh vực nghiên cứu và hình thành nhiều chuyên ngành mới. Sự kết hợp giữa các ngành khoa học khác là một trong những nét quan trọng nhất trong “sự chuyển đổi hình thái của sử học” dẫn đến những ngành mới và mở rộng khả năng của sử học. Phải cố gắng nâng cao “tầng diện” nghiên cứu của sử học, không chỉ dừng lại ở chỗ miêu tả, mà đi sâu vào bản chất, quy luật và định hướng, dự báo tương lai.

Một trong những hạn chế cơ bản của việc dạy, học môn sử ở phổ thông là phương pháp dạy, học và thi cử mà nét nổi bật là đòi hỏi rất thấp đối với học sinh, nghèo nàn về nội dung và rất thụ động trong học tập. Hiện nay, ở môn sử phương pháp chủ yếu là “phương pháp minh hoạ”; sau khi giảng bài xong, giáo viên thường cho học sinh ghi những dàn ý tóm tắt. Đến lúc gần kiểm tra hay thi thì cho học sinh những câu hỏi ôn tập, mà thực chất là giới hạn nội dung cần phải học. Như vậy, việc học của học sinh hết sức nhẹ nhàng, chỉ cần tập trung vào những nội dung trọng tâm và nhớ thuộc lòng một cách máy móc để trả lời những câu hỏi trong bài kiểm tra hay thi học kỳ. Tệ hơn là có những trường giáo viên còn cho học sinh chép sẵn những câu trả lời mẫu cho các câu hỏi ôn tập và học sinh chỉ cần học thuộc lòng là đạt yêu cầu.

Để đổi mới phương pháp dạy, học và đánh giá học sinh trong môn sử, chúng ta có thể tham khảo cách dạy và học phổ biến sau đây của các giáo viên dạy sử ở các trường trung học của nhiều nước phát triển. Nội dung môn học thường chia thành nhiều đơn vị, mỗi đơn vị đề cập đến một chủ đề, một giai đoạn lịch sử. Trước mỗi tiết học thầy yêu cầu học sinh phải đọc ở nhà trước khoảng 10 trang sách giáo khoa (yêu cầu này ghi rõ trong đề cương môn học). Đến giờ học sử, thầy giáo dành khoảng 5 phút đầu tiên để đặt những câu hỏi nhỏ nhằm kiểm tra kiến tức học sinh về những gì đã yêu cầu đọc chuẩn bị cho giờ học, sau đó trong khi giảng bài thầy giáo hết sức chú ý khuyến khích học sinh đặt nhiều câu hỏi (yêu cầu này có tính điểm cho môn học). Học xong một đơn vị, học sinh phải làm một bài kiểm tra. Bài kiểm tra một tiết thường bao gồm 80 câu hỏi trắc nghiệm, 2 câu hỏi lớn, một bản đồ in sẵn những địa danh lịch sử yêu cầu học sinh sắp xếp lại cho phù hợp hay điền những từ phù hợp. Bên cạnh việc đọc sách giáo khoa trước khoảng 10 trang mỗi giờ học, thầy giáo còn thường đưa tài liệu được chọn lọc để cho học sinh đọc bổ sung những kiến thức đã giảng trong lớp. Những đọc thêm này là cần thiết cho việc trả lời những câu hỏi trong kiểm tra hoặc thi hết môn. Sau khi học xong 4 – 5 đơn vị, học sinh có một tiết xem phim lịch sử và phải viết thu hoạch tính điểm về nội dung phim. Cuối cùng sau khi học hết môn (khoảng 20 đơn vị) học sinh phải thi hết môn. Nội dung đề thi hết môn thường bao gồm 100 câu trắc nghiệm và 2 câu hỏi lớn (thực chất là 2 bài tiểu luận). Thời gian thi hết môn khoảng 2 giờ. Cơ cấu đánh giá môn Sử thường phân bố như sau:

- Trả lời câu hỏi trong lớp: 10%

- Đóng góp trong lớp (như việc đặt câu hỏi...): 10%.

- Bài thu hoạch ở nhà 20%

- Kiểm tra 20%

- Thi hết môn 40%.

Hơn nữa, sau khi thi hết “học kỳ”, thầy cô giáo phụ trách môn phải nhận xét việc học từng môn học của học sinh một cách hết sức chi tiết về những ưu, khuyết điểm, sự tiến bộ và triển vọng (thường dài khoảng một trang giấy). Những nhận xét và điểm số môn học được đưa lên trang web để học sinh và phụ huynh có thể theo dõi một cách dễ dàng.

Tóm lại, có rất nhiều việc phải làm trong ngắn hạn và dài hạn để đổi mới việc dạy và học sử trong trường phổ thông của Việt Nam, nhưng quan trọng nhất bây giờ là phải làm cho cả xã hội và toàn ngành giáo dục, cũng như từng thầy cô giáo dạy sử nhận ra “căn bệnh” này và cùng nhau tìm ra thuốc chữa một cách hiệu quả nhất.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.