Đổi mới việc dạy và học lịch sử ở trường phổ thông
Đối với việc dạy và học sử ở các trường phổ thông, điều quan trọng nhất là phải khôi phục lại “vị trí môn học”, không thể để môn sử bị “xem thường” như hiện nay. Điều này hoàn toàn đi ngược với truyền thống “hết sức coi trọng lịch sử trong giáo dục con người” của tổ tiên ta. Không phải vô cớ mà Bác Hồ trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, từ lúc đi tìm đường cứu nước đến khi là người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, luôn xem lịch sử là vũ khí cực kỳ sắc bén của cách mạng và Người đã sử dụng tốt nhất vũ khí này để tuyên truyền cách mạng, giáo dục nhân dân. Những người soạn thảo chương trình học ở phổ thông cần chú ý, tại sao ở Mỹ (một nước mới có trên 2 thế kỷ lập quốc!) hiện nay người ta xem ba môn cơ bản, bắt buộc học (“required courrses”) ở trung học là Toán, Văn và Sử; tại sao họ có thể bố trí học sinh học môn sử 4 – 6 tiết một tuần, còn ở Việt nam thì cao nhất chỉ là 2 tiết một tuần (ở lớp 12), còn lại chỉ là 1 tiết một tuần. Thời lượng như vậy là không đủ để giáo viên truyền đạt sâu và học sinh hiểu sâu sắc các nội dung bài học. Giáo viên phổ thông thường than phiền rằng thời lượng này chỉ đủ cho học sinh ghi “tóm tắt bài học” và giảng một cách hết sức tổng quát như là “Cưỡi ngựa xem hoa”. Chúng ta cần rà soát lại khung chương trình, nội dung kiến thức theo hướng giảm tải, điều chỉnh cơ cấu, để tăng cường thời gian học tập một số môn hết sức quan trọng, trong đó có lịch sử. Không phải bất cứ kiến thức nào, môn học nào cũng đưa vào chương trình phổ thông. Phải chăng nên phân thành hai loại môn học ở phổ thông, “môn tự chọn” và “môn bắt buộc”; toán, văn, sử là ba môn bắt buộc, còn lại là những môn tự chọn. Cách chuyển đổi này cũng rất phù hợp với dự định của ngành giáo dục hiện nay là sẽ xét tuyển vào đại học dựa vào kết quả học tập ở phổ thông, nhất là kỳ thi tốt nghiệp phổ thông. Đổi mới này chắc chắn sẽ là một trong những cách hữu hiệu nhất để nâng cao được vị trí của môn Sử trong trường phổ thông và khuyến khích không khí dạy và học sử ở trường phổ thông. Ở nước ta hiện nay, phần lớn những học sinh dự định theo học những ngành kỹ thuật và khoa học tự nhiên đều không quan tâm đến việc học sử, họ chỉ cố gắng đạt được điểm trung bình để tốt nghiệp. Điều này rất dễ hiểu bởi vì kết quả học sử ở phổ thông không ảnh hưởng gì đến việc thi vào đại học của những học sinh này.
Đồng thời với việc khôi phục vị trí môn lịch sử trong trường phổ thông, ngành giáo dục phải hết sức tập trung đào tạo và đào tạo lại đội ngũ giáo viên dạy sử trong toàn quốc và xem đây như là một trong những việc lớn của chiến lược giáo dục Việt Nam cho đến năm 2020. Phải có chính sách đầu tư đích đáng để đổi mới việc nghiên cứu, dạy và học chuyên ngành lịch sử ở bậc đại học và phát triển mạnh các khoa Lịch sử của hai trường ĐHKHXH&NV ở hai Đại học Quốc gia Hà Nội và TP. HCM và ở các trường Đại học Sư phạm trên cả nước, hình thành một mạng lưới mạnh cho việc đào tạo và nghiên cứu lịch sử ở các trường đại học, làm nòng cốt cho việc dạy và học sử trên cả nước. Phải cố gắng trang bị cho sinh viên khả năng tận dụng những thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ vào học tập và nghiên cứu lịch sử; đổi mới phương pháp giảng dạy “lấy người học làm trung tâm”, tăng cường seminar, tranh luận, tự nghiên cứu... Phải kiên quyết lấy điểm chuẩn tuyển sinh cao, không chạy theo số lượng, nhằm chọn lọc được những sinh viên ưu tú và say mê sử học, đặc biệt chú ý đến hệ cử nhân tài năng trong ngành sử. Phải có một chương trình dài hạn nhằm không ngừng bổ sung kiến thức và phương pháp giảng dạy lịch sử cho đội ngũ giáo viên phổ thông. Mỗi năm vào mùa hè ngành giáo dục nên tổ chức nhiều loại hình học tập linh hoạt, hiệu quả nhằm nâng dần chất lượng và lòng yêu nghề của đội ngũ giáo viên môn sử, tương tự như cách ngành giáo dục đang làm đối với đội ngũ giảng viên các môn Khoa học Mác - Lênin. Phải hết sức chú ý khuyến khích giáo viên dạy sử ở phổ thông tiếp tục học sau đại học, đạt được trình độ thạc sĩ, tiến sĩ Lịch sử. Dĩ nhiên, đòi hỏi ngày tuy rất khó thực hiện rộng rãi, nhưng nếu có chủ trương của ngành giáo dục thì trong điều kiện hiện nay các trường phổ thông ở các thành phố hoàn toàn có thể phấn đấu đạt khoảng 10 - 20% giáo viên dạy sử có trình độ sau đại học. Ngoài ra, các trường phổ thông có thể hợp đồng thêm với đội ngũ các nghiên cứu sinh đang chuẩn bị luận án tiến sĩ Lịch sử để bổ sung cho lực lượng giáo viên và đa dạng hoá lực lượng giảng dạy sử. Phải chú ý cải tiến sinh hoạt của các Tổ bộ môn Sử ở các trường phổ thông sao cho sinh động, hiệu quả, nhằm không ngừng nâng cao năng lực sư phạm của giáo viên. Tổ chuyên viên phụ trách môn Sử ở Sở Giáo dục và Đào tạo ở các địa phương phải cải tiến nội dung và phương pháp làm việc sao cho có thể tham mưu cho việc quản lý giảng dạy môn sử thật tốt ở các trường phổ thông. Hội Khoa học Lịch sử ở trung ương và các tỉnh, thành phố nên chú ý lôi cuốn đội ngũ giáo viên dạy sử gia nhập hội và có nhiều phong trào giúp họ nâng cao trình độ học thuật và phương pháp giảng dạy lịch sử.
Sách giáo hoa lịch sử ở phổ thông hiện nay chất lượng rất kém cả về nội dung và hình thức, không đủ sức làm chỗ dựa cho học sinh học tốt môn sử. Chỉ cần làm một so sánh nhỏ giữa sách giáo khoa của ta và của Mỹ (cụ thể ở đây là sách giáo khoa The American Pageant,volume I, to 1877 và volume II, since 1865, được dùng cho học sinh lớp 11, trường trung học Brentwood ở Los Angelès và sách giáo khoa lịch sử ở lớp 11 của Bộ GD&ĐT Việt Nam) thì có thể thấy rõ những yếu kém về sách giáo khoa Sử của ta.
Sách giáo khoa của Mỹ có độ dày của hai tập là 1679 trang, còn của ta chỉ có 128 trang. Một học sinh đã từng học lớp 11 của Mỹ đã cho nhận xét rất đáng lưu ý rằng: “Văn phong sách của ta rất khô khan, thiếu hình ảnh, đọc dễ buồn ngủ; trong khi đó đọc sách lịch sử lớp 11 của Mỹ rất hấp dẫn, nhiều hình ảnh, thậm chí có cả những bài thơ lịch sử có liên quan đến bài học...”. Thật vậy, nếu chúng ta đi vào bố cục từng bài học được trình bày ta có thể chấp nhận ý kiến của học sinh này là đúng. Trong từng bài học trong sách giáo khoa của Mỹ đã nói trên, bên cạnh những đoạn văn trình bày nội dung thường có nhiều hình ảnh, bản đồ, đồ biểu minh hoạ rất ấn tượng; cuối bài thường có niên biểu tóm tắt các sự kiện chính và một minh hoạ quan điểm khác với quan điểm đã trình bày trong bài học (“varying viewpoints”), cùng thông tin hướng dẫn đọc thêm ở phụ lục cuối sách và địa chỉ trang web liên quan để học sinh đọc thêm. Không đi sâu phân tích về nội dung khoa học, nhưng theo tôi nội dung của từng trang sách giáo khoa nói trên của Mỹ được viết hết sức cẩn thận, công phu, nghiêm túc, nhiều thông tin hơn sách của ta rất nhiều. Chắc chắn rằng tác giả những trang viết này phải đầu tư rất nhiều thời gian để viết.
Để đổi mới dạy và học lịch sử ở phổ thông, đặc biệt là để có sách giáo khoa lịch sử tốt, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như các cơ quan, viện nghiên cứu lịch sử, các trường đại học phải “vào cuộc”. Bổ phải có chiến lược soạn sách giáo khoa. Có lẽ một trong những hạn chế lớn của ta trong việc này là đầu tư cho việc soạn sách giáo khoa còn quá nhỏ bé, thời gian gấp rút, chưa tạo điều kiện đủ để các nhà sử học lớn tập trung đầu tư cho công việc này. Hơn nữa, mặc dù nền sử học Việt Nam mấy mươi năm qua đã có nhiều thành tựu lớn, nhưng chúng ta không được chủ quan, tự bằng lòng với những thành tựu của ngày hôm qua, mà phải đổi mới sâu sắc để có những công trình sử học tốt nhất làm chỗ dựa cho việc hình thành hệ thống sách giáo khoa lịch sử có chất lượng cao nhất ở các bậc học, trong đó có bậc phổ thông. Không có những công trình nghiên cứu tốt, không thể có sách giáo khoa tốt được. Chúng ta phải cố gắng hơn nữa trong vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Kinh nghiệm cho thấy vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin là chỗ mạnh của sử học mác - xít, đồng thời việc bảo thủ, tả khuynh, giáo điều, đơn giản, phiến diện... trong khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin như là cơ sở phương pháp luận của sử học mác - xít cũng là một trong những nhược điểm chủ yếu cần đổi mới và cũng chính là điểm khó khăn vào bậc nhất của công cuộc đổi mới sử học. Các nhà sử học phải cố gắng cập nhật được những kiến thức hiện đại nhất, cập nhật nhất, phải cố gắng thừa kế những thành tựu của nền sử học các nước phát triển trên thế giới để có thể vượt qua họ, nhất là những nghiên cứu về lịch sử Việt Nam. Để đáp ứng những yêu cầu lớn lao mới, Sử học nước ta phải vừa củng cố những chuyên ngành truyền thống, vừa mở rộng lĩnh vực nghiên cứu và hình thành nhiều chuyên ngành mới. Sự kết hợp giữa các ngành khoa học khác là một trong những nét quan trọng nhất trong “sự chuyển đổi hình thái của sử học” dẫn đến những ngành mới và mở rộng khả năng của sử học. Phải cố gắng nâng cao “tầng diện” nghiên cứu của sử học, không chỉ dừng lại ở chỗ miêu tả, mà đi sâu vào bản chất, quy luật và định hướng, dự báo tương lai.
Một trong những hạn chế cơ bản của việc dạy, học môn sử ở phổ thông là phương pháp dạy, học và thi cử mà nét nổi bật là đòi hỏi rất thấp đối với học sinh, nghèo nàn về nội dung và rất thụ động trong học tập. Hiện nay, ở môn sử phương pháp chủ yếu là “phương pháp minh hoạ”; sau khi giảng bài xong, giáo viên thường cho học sinh ghi những dàn ý tóm tắt. Đến lúc gần kiểm tra hay thi thì cho học sinh những câu hỏi ôn tập, mà thực chất là giới hạn nội dung cần phải học. Như vậy, việc học của học sinh hết sức nhẹ nhàng, chỉ cần tập trung vào những nội dung trọng tâm và nhớ thuộc lòng một cách máy móc để trả lời những câu hỏi trong bài kiểm tra hay thi học kỳ. Tệ hơn là có những trường giáo viên còn cho học sinh chép sẵn những câu trả lời mẫu cho các câu hỏi ôn tập và học sinh chỉ cần học thuộc lòng là đạt yêu cầu.
Để đổi mới phương pháp dạy, học và đánh giá học sinh trong môn sử, chúng ta có thể tham khảo cách dạy và học phổ biến sau đây của các giáo viên dạy sử ở các trường trung học của nhiều nước phát triển. Nội dung môn học thường chia thành nhiều đơn vị, mỗi đơn vị đề cập đến một chủ đề, một giai đoạn lịch sử. Trước mỗi tiết học thầy yêu cầu học sinh phải đọc ở nhà trước khoảng 10 trang sách giáo khoa (yêu cầu này ghi rõ trong đề cương môn học). Đến giờ học sử, thầy giáo dành khoảng 5 phút đầu tiên để đặt những câu hỏi nhỏ nhằm kiểm tra kiến tức học sinh về những gì đã yêu cầu đọc chuẩn bị cho giờ học, sau đó trong khi giảng bài thầy giáo hết sức chú ý khuyến khích học sinh đặt nhiều câu hỏi (yêu cầu này có tính điểm cho môn học). Học xong một đơn vị, học sinh phải làm một bài kiểm tra. Bài kiểm tra một tiết thường bao gồm 80 câu hỏi trắc nghiệm, 2 câu hỏi lớn, một bản đồ in sẵn những địa danh lịch sử yêu cầu học sinh sắp xếp lại cho phù hợp hay điền những từ phù hợp. Bên cạnh việc đọc sách giáo khoa trước khoảng 10 trang mỗi giờ học, thầy giáo còn thường đưa tài liệu được chọn lọc để cho học sinh đọc bổ sung những kiến thức đã giảng trong lớp. Những đọc thêm này là cần thiết cho việc trả lời những câu hỏi trong kiểm tra hoặc thi hết môn. Sau khi học xong 4 – 5 đơn vị, học sinh có một tiết xem phim lịch sử và phải viết thu hoạch tính điểm về nội dung phim. Cuối cùng sau khi học hết môn (khoảng 20 đơn vị) học sinh phải thi hết môn. Nội dung đề thi hết môn thường bao gồm 100 câu trắc nghiệm và 2 câu hỏi lớn (thực chất là 2 bài tiểu luận). Thời gian thi hết môn khoảng 2 giờ. Cơ cấu đánh giá môn Sử thường phân bố như sau:
- Trả lời câu hỏi trong lớp: 10%
- Đóng góp trong lớp (như việc đặt câu hỏi...): 10%.
- Bài thu hoạch ở nhà 20%
- Kiểm tra 20%
- Thi hết môn 40%.
Hơn nữa, sau khi thi hết “học kỳ”, thầy cô giáo phụ trách môn phải nhận xét việc học từng môn học của học sinh một cách hết sức chi tiết về những ưu, khuyết điểm, sự tiến bộ và triển vọng (thường dài khoảng một trang giấy). Những nhận xét và điểm số môn học được đưa lên trang web để học sinh và phụ huynh có thể theo dõi một cách dễ dàng.
Tóm lại, có rất nhiều việc phải làm trong ngắn hạn và dài hạn để đổi mới việc dạy và học sử trong trường phổ thông của Việt Nam, nhưng quan trọng nhất bây giờ là phải làm cho cả xã hội và toàn ngành giáo dục, cũng như từng thầy cô giáo dạy sử nhận ra “căn bệnh” này và cùng nhau tìm ra thuốc chữa một cách hiệu quả nhất.








