Điểm môn Sử thấp vì sao và làm thế nào?
Cách đây vài năm, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã có một đề tài lớn, tập hợp nhiều nhà giáo, nhiều nhà khoa học tiến hành rà soát chương trình và sách giáo khoa từng môn học của các lớp phổ thông cơ sở. Đã có nhiều buổi hội thảo, nhiều bản nhận xét, có nghiệm thu và kiến nghị, có tổng kết với sự tham dự của Bộ Giáo dục và đào tạo. Nhưng sau đó là “sự im lặng đáng sợ”, tất cả rơi vào quên lãng, đến hôm nay lại trở về điểm xuất phát.
Bài này muốn phân tích vì sao nên nông nỗi và khắc phục bằng cách nào. Nên điểm lại từng khâu để bắt mạch cho đúng bệnh.
1. Thời lượng dành cho môn Sử trong nhà trường phổ thông là 1,5 – 2 tiết mỗi tuần. Theo tôi, như vậy là đủ nếu được đảm bảo giảng dạy đúng quy định. Song các Ban giám hiệu, với quan niệm coi đó là môn phụ nên cắt xén giờ, dạy dồn giờ để tập trung thời gan cho các “môn quan trọng hơn” (?) như Văn, Toán, Ngoại ngữ, còn ở cấp Sở, cấp Bộ thì cũng quan niệm như vậy, có năm thi môn Sử, có năm không thi, hoặc chỉ coi Sử như một môn thay thế cho môn Ngoại ngữ ở những nơi chưa có điều kiện học ngoại ngữ.
Cách đối xử với môn Lịch sử như vậy chứng tỏ rằng các nhà quản lý giáo dục nhận thức không đầy đủ về vị trí của môn học này trong việc đào tạo những người công dân có lý tưởng, những người lao động có trách nhiệm đối với xã hội.Môn Sử được đối xử như vậy, người giáo viên Sử cảm thấy vị trí của mình như vậy thì làm sao có thể đòi hỏi một kết quả khả quan được?
Cho nên, muốn khắc phục thì trước hết phải thay đổi quan niệm đối với môn học này.Được biết rằng trên thế giới, có những nước quy định người ngoại quốc muốn nhập quốc tịch nước họ thì phải qua một kỳ sách hạch, trong đó có 2 môn bắt buộc là ngôn ngữ nước họ và lịch sử nước họ. Điều đó cho thấy lịch sử, nhất là lịch sử dân tộc, có ý nghĩa quan trọng như thế nào trong đời sống tinh thần của các quốc gia đó.
2. Chương trình môn Sử trung học cơ sở và trung học phổ thông mặc dầu đã có sửa đổi nhưng vẫn chưa phù hợp với lứa tuổi thanh thiếu niên và mới chớm thanh niên. Về lý thuyết, yêu cầu đặt ra quá cao, nội dung quá nhiều, thamlam nhồi nhét. Lấy ví dụ chương trình lịch sử hiện đại, hầu như không bỏ một giai đoạn nào, liên miên từ chiến dịch này đến trận đánh khác, nhiều đoạn trích dẫn nguyên văn nghị quyết đối với học sinh là rất khô khan khó hiệu, lại thêm con số địch chết bao nhiêu, thương vong bao nhiêu... Phần xây dựng kinh tế xã hội lại như một báo cáo tổng kết với những con số nối tiếp con số. Do vậy học sinh học dễ chán, không nhớ, lẫn lộn các sự kiện và nhân vật và điều quan trọng là không tạo được chút cảm xúc nào trước những trang sử của dân tộc.
Lịch sử thế giới lại càng khó, tên nước ngoài khó đọc, địa lý nước ngoài không biết, nhân vật nước ngoài chẳng rõ, nhầm lẫn lung tung. Nói vậy, không phải là để đi đến giải pháp cực đoan bỏ hẳn phần lịch sử thế giới, nhất là trong thời kỳ hội nhập ngày nay.
Cho nên cần xây dựng lại chương trình một các mạnh dạn, cơ bản, tinh giản và phù hợp với lứa tuổi thì mới có thể tạo nên bước chuyển biến thực sự.Có lẽ nên nhắc lại phương châm “ Thà ít mà tốt” làm cho học sinh học ít hơn nhưng hiểu và nhớ được còn hơn là học nhiều mà chẳng hiểu bao nhiêu, thậm chí còn hiểu sai, viết sai thì mặt phản tác dụng còn tai hại hơn. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các kiến thức cơ bản được trình bày một cách đơn giản nhất, gần gũi và có lợi ích thiết thực nhất.
3. Trên cơ sở chương trình đã thay đổi và được ổn định mới tổ chức viết sách giáo khoa. Cần lựa chọn tác giả là những người học giỏi về chuyên môn, nhiều kinh nghiệm sư phạm. Một cuốn sách giáo khoa lịch sử hiện nay dày chừng 300 trang mà có đến hơn 10 tác giả, phân nhiều cấp bậc: Tổng chủ biên, chủ biên, đồng chủ biên... Nếu chia đều thì mỗi tác giả viết chưa đầy 30 trang. Cách tổ chức như vậy không tạo nên trí tuệ tập thể mà ngược lại, rất phân tán, chất lượng không cao.
Mỗi cuốn sách giáo khoa lịch sử chỉ nên có 2 tác giả là người trực tiếp viết và chịu trách nhiệm về những trang viết của mình. Nhưng rất cần một đội ngũ phản biện, góp ý kiến có trình độ khoa học, có kinh nghiệm sư phạm và có nhiệt tâm với tinh thần trách nhiệm cao. Bên cạnh các nhà sử đầu ngành rất cần có sự góp ý của giáo viên giỏi ở trung học phổ thông, họ là những người gần gũi học sinh có thể nhận biết khả năng tiếp thu của học sinh đối với từng trang sách, có thể góp nhiều ý kiến xác đáng phù hợp với thực tiễn giảng dạy trong nhà trường.
Có một thực tế là việc viết sách giáo khoa hiện nay là “ công việc tay trái”, các tác giả vừa phải đảm nhiệm công việc chính ở trường của mình, vừa phải tranh thủ thời gian làm nhiệm vụ viết sách giáo khoa. Sự hạn chế về thời gian, sự thiếu tập trung công sức cho một việc cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng sản phẩm. Đó là chưa kể các khâu viết sách, thẩm định sách... đều tiến hành vội vàng cho đúng kế hoạch của nhà xuất bản.
Nên chăng khôi phục hình thức tổ chức Ban tu thưthuộc Bộ Giáo dục như trước đây, tập hợp lâu dài hoặc có thời hạn vài ban năm các nhà giáo có kinh nghiệm để tập trung thời gian và công sức cho việc viết sách. Sau đó chính các tác giả sẽ đi đến các trường để kiểm nghiệm kết quả, tiếp xúc thầy cô giáo và học sinh qua những bài giảng trong sách giáo khoa của mình, tiếp thu có chọn lọc các ý kiến của những người trong ngành và ngoài ngành. Những chuyên gia viết sách giáo khoanhư vậy tuy số lượng không đông nhưng sẽ có đóng góp hiệu quả và lâu dài cho công tác giáo dục.
4. Nếu như chỉ có một tỷ lệ nhỏ học sinh không làm được bài thì cái lỗi thuộc về những em cụ thể đó. Nhưng khi đã có số đông đạt điểm kém thì bên cạnh vấn đề quan niệm và chương trình, sách giáo khoa đã nói ở trên, nguồn gốc sâu xa của lỗi đó thuộc về người thầy. Bởi vì trong bất cứ hoàn cảnh nào, thầy giáo là yếu tố chính có vai trò quyết định chất lượng đào tạo trong nhà trường.Trước đaya, trong điều kiện sách giáo khoa chưa có hoặc rất ít ỏi, sơ sài nhưng được các bậc thầy kiến thức uyên thâm giảng dạy nên sản phẩm đào tạo có chất lượng, đã đào tạo được một đội ngũ trò giỏi thành lực lượng nòng cốt cho công tác giáodục sau này. Đến nay, lực lượng giáo viên khá đông, không thiếu về số lượng, nhưng kết quả lại đáng buồn như ta đã thấy.
Do vậy cần có một sự rà soát nghiêm túc chất lượng sinh viên đầu vào cũng như đầu racủa các trường đại học, cao đẳng về khoa học xã hội nhân văn có ngành lịch sử. Đặc biệt là hệ thống các trường sư phạm, nơi cung cấp cho xã hội những người thầy. Khi các trường đại học và cao đẳng đào tạo những người thầy chuẩn mực về đạo đức và vững vàng về chuyên môn thì đương nhiên các thế hệ học trò sữ tiếp nhận được tấm gương sư phạm và nội dung khoa học từ những người thầy giáo của mình. Nếu ngược lại, cứ cho tốt nghiệp hàng loạt cử nhân với điểm số cao, nhưng chất lượng thấp thì hậu quả đã là nhỡn tiền!
5. Còn phải kể đến nhiều yếu tố vật chất có liên quan như sách tham khảo, sách truyện và phim ảnh lịch sử, các đồ dùng dạy học... Những điều đó còn đang thiếu, cần được khắc phục, song không nên viện dẫn sự thiếu thốn này để che lấp những nguyên nhân thực sự của thực trạng đáng xấu hổ hiện nay.
Cũng nên nhắc đến một yếu tố mang tính xã hội mà cụ thể là các vị phụ huynh học sinh. Nếu như các vị cũng chỉ chăm chú vào các môn thi tuyển đại học, chỉ bắt con em tập trung vào các môn đó, bỏ qua các môn Sử, Địa thì nỗ lực của Nhà trường cũng bị hạn chế rất nhiều.
Có rất nhiều việc phải làm, song cần bắt đầu từ việc châấ chỉnh cách nhìn nhận về vị trí môn lịch sử trong chức năng gioá dục con người và nâng cao năng lực của đội ngũ giáo viên thì mới có thể thay đổi một cách cơ bản tình hình, góp phần cùng các môn học khác đào tạo thế hệ trẻ nước nhà. Đó không chỉ là công việc của riêng giới sử học mà phải là công việc của toàn ngành giáo dục và sự quan tâm của toàn xã hội.
Nguồn: Xưa & Nay, số 303, 3 - 2008, tr XII







