Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 28/08/2008 00:12 (GMT+7)

Địa vị chữ Nôm trong buổi tiếp xúc đầu tiên giữa Âu và Á thế kỷ XVII

Nhưng người ta tự hỏi, chữ Quốc ngữ có phải là một sự việc độc nhất ghi dấu cuộc tiếp xúc Âu Việt, hay còn có một biến cố nào khác về văn hóa? Chúng tôi trả lời là có, và có trước cả việc phiên âm Việt ngữ. Biến cố này xảy ra thầm kín hơn, sâu sắc hơn, và cũng vì thế ít người để ý hơn, có lẽ cũng vì thiếu tài liệu và khó khăn việc tìm tòi. Đó là điều mà chúng tôi muốn trình bày ở đây.

Địa vị chữ Nôm cho tới thế kỷ XVII

Người Việt Nam từ ban đầu hẳn đã có một tiếng nói riêng biệt hay tiếng Việt. Song còn về chữ viết thì chưa rõ. Có lẽ văn tự ấy đã phát hiện từ đời Sĩ Nhiếp, nhưng chắc chắn đã thành hình và sử dụng từ thời Hàn Thuyên (thế kỷ XIII). Tuy nhiên việc sử dụng ấy rất có giới hạn. Người thời ấy có quan niệm khinh tiếng mẹ đẻ, coi thường chữ viết hay chữ Nôm, nếu chúng tôi không lầm, thì tương tự như thái độ khinh thị và sao nhãng Việt ngữ của một số người thời đại chúng ta. Các sử gia và các tác giả đều đã nhận thấy sự kiện ấy. Chữ Nho hay Hán tự đã được dùng trong các học đường, trong các cơ quan hành chính, trong việc biên soạn sử địa, trong sự diễn đạt tư tưởng. Chữ Nôm thì giữ một địa vị bà con nghèo, để tiêu khiển trong vài ba câu thơ, ngâm nga mấy câu hát nói… “Nôm na mách qué” là thế, đến nỗi chữ “Nôm” trở nên gần như đồng nghĩa với “tầm thường”, “bình dân”, “thô thiển”, trái với tiếng “chữ” có nghĩa là “văn học”, “có học”, “thanh tao”. Một tỉ dụ không đúng, song rất gần như thái độ của chúng ta ngày nay, khi nói chuyện mà kèm thêm được vài ba chữ, vài ba câu Pháp ngữ, Anh ngữ. Nói nôm và nói chữ là thế.

Nhưng nếu có văn gia nào có thời giờ nhàn rỗi mà soạn một cái gì bằng chữ Nôm thì chỉ là những bài hát vần, thơ phú, chứ tuyệt nhiên không ai quan tâm soạn sách chữ Nôm bằng văn xuôi. Phải chăng đây cũng là một trong những đặc điểm của nền văn chương Việt Nam cho tới thế kỷ XVII. Các thi văn, truyện ký, sử ký, địa chí đều viết bằng Hán văn, còn về Việt văn, chỉ toàn là vận văn. Tình trạng này thực ra còn kéo dài mãi đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Nói tắt, người ta chưa có ý thức về địa vị của Việt ngữ trong việc giáo hóa và truyền đạt tư tưởng. Bởi thế, chữ Nôm văn xuôi chưa được một địa vị xứng đáng với văn tự của một nước có chủ quyền độc lập, một tiếng nói của mọi người dân Việt.

Chữ Nôm dưới mắt của giáo sĩ người Âu

Nói chung thì một người Âu thế kỷ XVII mới tiếp xúc với nước Việt Nam đều phải nhận thấy một sự việc phức tạp này: ngoài thứ chữ chính thức trong các trường học, các khoa thi, các giấy tờ, còn một thứ chữ tương tự (thực ra chỉ tương tự thôi) đó là chữ Nôm. Hơn thế nữa, nếu người Trung Hoa nói tiếng quan thoại và viết tiếng đó bằng “chữ nho” thì người Việt khi viết thì viết bằng Hán tự, còn khi nói thì nói bằng “chữ Nôm”. Nhận xét trên biểu lộ một thái độ lệ thuộc văn tự khá tệ hại của các nhân sĩ thời xưa.

Giáo sĩ Borri đã so sánh việc dùng chữ Hán tại Việt Nam thế kỷ XVII tương tự như việc sử dụng tiếng latinh thời Trung cổ tại Âu châu. Thời đó, La ngữ là tiếng của kẻ trí thức, tiếng chính thức dạy trong các học đường và là tiếng độc nhất, mặc dầu mỗi nước đã có một tiếng nói bản thổ, song chưa được chính thức gia nhập vào phạm vi học đường và tư tưởng, cho tới ngày tiếng bản thổ thay thế hẳn cho la ngữ, tiếng này trở về địa vị một tử ngữ chứ không còn là “sinh ngữ” độc tôn.

Theo Borri thì Hán tự gồm 80.000 chữ, mỗi chữ đều có một hình thức khác nhau, đến nỗi phải để ra 10 năm mới trông viết được đầy đủ, mà thực ra đã dễ đâu! Người Việt Nam đã rút bớt thứ chữ viết của họ, nghĩa là chữ Nôm, nên chỉ còn chừng 3 ngàn chữ thôi. Trái lại người Nhật Bản đã sáng chế ra một thứ mẫu tự gồm 48 chữ cái để có thể biên soạn những công việc thường nhật. Song chính người Nhật vẫn trọng dụng chữ Hán, đến nỗi người ta đã gọi thứ chữ vắn tắt này là chữ của đàn …

Nếu giáo sĩ Borri đã rõ ràng đề cập một cách sơ lược tới chữ Nôm, thì không phải chúng ta sẽ hiểu là ngài đã học hay viết được thứ chữ khó khăn ấy. Thật vậy, trong đoàn giáo sĩ tiên khởi đến truyền bá Kitô giáo tại Việt Nam vào thế kỷ XVII, trừ một vị mà chúng tôi sẽ bàn giải sau, thì không một ai đã tỏ ra thông thạo chữ Nôm. Người có tên tuổi trong văn hóa Việt Nam , cha Đắc Lộ, không hề để lại một bút tích nào chứng thực ngài đã biết chữ Nôm. Điều này có lẽ không có chi lạ: bởi vì chữ Nôm là thứ chữ vừa thuộc loại tượng hình như chữ Hán, vừa thuộc loại tượng âm. Cho nên muốn biết chữ Nôm, phải thông thạo Hán tự đã. Bởi vậy đối với các người ngoại quốc, có thể nói là một thành trì bít kín không thể xâm nhập đặng.

Đọc các tác phẩm của giáo sĩ Đắc Lộ chúng ta thấy rõ ngài không biết chữ Nôm, cả đến chứ Hán nữa. Song không phải vì thế mà chữ Nôm không có một địa vị quan trọng trong việc truyền bá Kitô giáo. Thật vậy, chúng ta thấy rằng những người cộng sự đầu tiên của giáo sĩ Đắc Lộ trong công việc này là những người Việt Nam có học, nghĩa là vừa thông thạo chữ Hán vừa thấu đáo chữ Nôm. Những lời giáo huấn, những kinh sách ngài rao giảng được biên chép lại, dĩ nhiên bằng chữ Nôm, trong khi đó chắc chắn là nhà truyền giáo của chúng ta đã ghi lại bằng thứ chữ latinh do các giáo sĩ khác khởi xướng và do chính ngài điều chỉnh và hoàn bị dần dần, với thời gian. Trong một bệnh viện, Simon đã chép các kinh sách; bà “chị nhà vua” đã làm thơ vịnh lại tất cả bộ sách giáo lý, bà Catarina, thầy Phanxicô, thầy Inhaxu cũng đã ghi lại các điều về đạo; chính các giáo hữu cũng đã soạn một cuốn lịch các ngày lễ tôn giáo và đem in, nhất là câu truyện các giáo đoàn miền Bắc đã gửi cho các giáo đoàn miền Nam một bộ gồm 20 cuốn sách do các giáo sĩ miền Bắc soạn: dĩ nhiên bằng chữ Nôm.

Trên con đường tìm tòi những tác phẩm chữ Nôm thế kỷ XVII

Như vậy, ngay từ thế kỷ XVII, với đoàn giáo sĩ tiên khởi, người ta hẳn đã thấy có những tác phẩm bằng chữ Nôm. Bởi vì đi tới đâu, các ngài đã dùng ngay ngôn ngữ ở đấy để soạn các sách về tôn giáo, hoặc phiên dịch Kinh thánh cho người bản thổ đọc và học. Chữ Quốc ngữ thời đó mới còn trong giai đoạn nghiên cứu, giai đoạn phôi thai, ở trong vòng sử dụng, hay đúng hơn thử nghiệm của một số giáo sĩ ngoại quốc và có lẽ cả một số những người Việt cộng tác mật thiết với các ngài. Có thể nói được rằng: chính cuốn sách Quốc ngữ đầu tiên mà chúng ta ngày nay được biết, cuốn “Phép giảng tám ngày…”của giáo sĩ Đắc Lộ in năm 1651, đã qua một giai đoạn chữ Nôm trước khi được phát hành thành sách bằng Quốc ngữ hay Việt ngữ phiên âm.

Vậy, những tác phẩm tôn giáo bằng chữ Nôm tiên khởi ấy, nghĩa là trước sau hay đồng thời với niên hiệu 1651, có hay không, nếu có thì ai là tác giả và gồm những quyển nào?

Tác giả Thanh Lãng, trong cuốn “Biểu nhất lãm văn học cận đại”, Sài Gòn, năm 1958, đã có công cho độc giả hiểu biết thêm về văn chương Kitô giáo. Trong nhóm “nhà văn” này, người ta thấy giáo sĩ Đắc Lộ (thế kỷ XVII), thuỷ tổ chữ Quốc ngữ, linh mục Philipphê Bỉnh (thế kỷ XVIII), nhà văn lưu lạc nơi quê người. Như vậy, hai thế kỷ XVII- XVIII, Kitô giáo chỉ để lại các tài liệu chữ Quốc ngữ, còn chữ Nôm thì tuyệt nhiên không có, hay chưa được tác giả bàn giải tới (theo Thanh Lãng).

Năm 1959, linh mục Nguyễn Hồng đã cho xuất bản bộ “Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam”, trong đó tác giả đã dành một đoạn dài đề cập tới “các thừa sai dòng Tên với nền văn hóa Việt Nam”. Người ta chỉ nhận thấy giáo sĩ Đắc Lộ với chữ Việt phiên âm do ngài hoàn thành và một số mấy giáo sĩ khác đã lưu lại những tác phẩm thuộc phong hóa, lịch sử. Vấn đề các sách soạn bằng chữ Nôm đã không được nghiên cứu tới. Người ta có cảm tưởng như hình ảnh quá “vĩ đại” của giáo sĩ Đắc Lộ đã choán hết sự chú ý của soạn giả. Thực ra, việc thành lập chữ Quốc ngữ là một biến cố rất mực quan trọng cho tiền đồ văn học nước nhà, song không phải chỉ có những sự nghiệp về chữ Việt phiên âm trong thế kỷ XVII, mà còn có một nền văn hóa chữ Nôm đáng cho ta chú ý tới nữa. Âu cũng là một thiếu sót của bộ Lịch sử rất quý và rất công phu, bộ sử Kitô giáo thứ nhất viết một cách khoa học và đầy đủ tài liệu, nhất là những tài liệu chưa bao giờ ấn hành (Nguyễn Hồng).

Những văn liệu chữ Nôm thế kỷ XVII hiện nay được tàng trữ tại Thư viện quốc gia Paris .

“Gió thu hiu hắt”, thư pháp chữ Nôm của Nguyễn Quang Thắng

“Gió thu hiu hắt”, thư pháp chữ Nôm của Nguyễn Quang Thắng

Năm 1951, trong khi sưu tầm những sách nói về vị truyền giáo thời danh tại Đông Nam Á, cha Schurhammer, người Đức đã giới thiệu với thế giới Công giáo một nhân vật người thành Napoli bên Ý,người đã giảng đạo tại Việt Nam cũng vào thời kỳ với cha Đắc Lộ. Đó là cha Girôlamô Majorica (1591-1656), người đã soạn nhiều sách tôn giáo bằng chữ Nôm, trong đó có nhiều tích truyện thánh, sáchgiáo lý và tiểu sử Phanxicô Xavie. Những kết quả của việc khảo cứu này đã được đăng trên một tạp chí bằng tiếng Đức năm 1951 (Georg SCHURHAMMER,  Annamitisch Xavierius Literatur đăng trong quyểnMissionswissenschaftliche Studien, Anchen, 1951 tr.300 - 314).

Giáo sĩ Schurhammer trong khi kiểm điểm những văn liệu tại Bảo tàng viện của dòng Tên ở Rôma, mới chỉ biết trên giấy tờ về thân thế và sự nghiệp của Majorica, song thực ra chưa tìm ra chính những tác phẩm đó. Cũng như trong một tài liệu khác, người ta thấy rằng: khi mấy giáo sĩ đầu tiên thuộc Hội truyền giáo ngoại quốc Paris đến Việt Nam, nghĩa là vào những năm sau năm 1660, các ngài đã vội vã thu được trên dưới 50 cuốn sách viết bằng chữ Nôm và gởi ngay về Âu châu, giữa làm tang vật và kỷ niệm. Cho nên với công cuộc của Schurhammer và tài liệu trên, người ta được biết chắc chắn đã có một số tác phẩm và đã có một tác giả soạn sách tôn giáo bằng chữ nôm.

Có lẽ do một sự tình cờ, trong khi chú trọng nghiên cứu những tài liệu văn hóa cổ Việt Nam tại Âu châu, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã khám phá ra một số sách khá quan trọng bằng chữ Nôm hiện lưu trữ tại thư viện quốc gia Paris. Bộ sách này đã do giáo sĩ Majorica dịch hay soạn. Như vậy, công việc của ông Hoàng Xuân Hãn đã đến xác nhận những tìm tòi của Schurhammer. Tất cả những tác phẩm này đều còn là bản thảo viết tay. Giáo sư đã tả lại như sau: “Năm 1951, trong khi kê khai thư mục về những sách bằng chữ Nôm lưu trữ tại Thư viện quốc gia Paris, tôi đã tìm ra một số bản thảo của nhà thừa sai đó (Girôlamô Majorica), còn nguyên từ thời tác giả. Tất cả đều xuất xứ từ một chủng viện Truyền giáo ngoại quốc, và đã được xếp vào ngăn Hán tự, nhất ngăn Fourmont. Hầu hết cùng một khổ chung (16 x 25) viết trên giấy dó, đóng theo sách nho, bìa bằng vỏ cây phết cậy. Màu bìa xam xám, mềm và dai. Chín cuốn trong bộ đó chắc chắn là của một người, bởi vì bia đều có dấu hiệu riêng là gấp làm ba mặt”.

Theo bài chính giáo sư đã cho đăng ở một tập san sử liệu (Hoàng Xuân Hãn, Girolamo Majorica, ses oeuvres en langue vietnamienne conservées à la bibliothèque nationale de Paris, trong “Archivum Historicum Societatis Iesu”, vol XXII, 1953, tr.203-214) thì lối viết thảo cổ, thuộc thế kỷ XVII hay XVIII rất dễ đọc và nhiều khi rất đẹp. Trong nhiều quyển, người ta đọc tới tên người sao lại, tỉ như Vito Tri, một người khá quen biết trong hàng linh mục Việt Nam tiên khởi thế kỷ XVII. Tên tác giả cũng được biên bằng chữ nôm: “Chi-yo-ni-mo Mai-o-yi-ca” hoặc bằng chữ Roma” Jeronymo Mayorica”.

Cuộc cách mạng chữ Nôm

Địa vị chữ Nôm trong giai đoạn này là một cuộc cách mạng. Nếu Hồ Quý Ly đã một phần nào thất bại trong việc tiến cử chữ Nôm làm văn tự chính thức trong giới văn học và dân chính, nếu sau này, thế kỷ XVIII vua Tây Sơn Nguyễn Huệ mới chỉ khởi xướng và chưa kịp hoàn tất công cuộc dịch thuật các sách ra chữ Nôm và dùng chữ này trong các khoa cử, thì ngay đầu thế kỷ XVII, các giáo sĩ người Âu, nhất là Mai Do người Ý đã thực hiện được cuộc cải cách lớn lao và bền bỉ. Đó là lấy ngôn ngữ, văn tự của người địa phương để giáo hóa người địa phương, dùng chữ Nôm để truyền bá tôn giáo cho người Việt mà ngót 50 sách của Mai Do là một bằng chứng vĩ đại.

Nhưng nếu gọi việc sử dụng chữ Nôm của Mai Do là một cuộc cải cách lớn lao trong nền văn hóa nước nhà, thì phải nói ngay đến việc sáng lập chữ Quốc ngữ, cũng trong thế kỷ XVII là một cuộc cải cách lớn lao khác.

Như thế hai nhân vật, hai sự nghiệp phải nhắc nhở đến, trong giai đoạn chuyển hướng của văn học nước nhà, khi bước sang một thời đại mới, đó là giáo sĩ Mai Do với những tác phẩm viết tay bằng chữ Nôm và giáo sĩ Đắc Lộ với những sách in bằng Quốc ngữ.

Giáo sĩ Mai Do (Majorica)

Giáo sĩ Mai Do, thuộc dòng Tên, sinh năm 1591, tại thành Napoli, nước Ý. Gia nhập Dòng năm 1605, đến năm 1619 được cử sang Ấn Độ. Cứ theo thủ tục thời đó, ngài qua Lisbon, thủ đô Bồ, rồi ở Goa hai năm. Vào năm 1623, ngài khởi hành đến Macao, với ý hướng tới truyền giáo tại Nhật. Song vì nước Nhật đang khủng bố Kitô giáo, cho nên người ta thấy ngài trở lại Macassar, rồi tới miền Nam nước Việt, chắc là tại Hội An. Sau 5 năm, nghĩa là năm 1629, ngài bị trục xuất, lúc đó ngài đã thông thạo Việt ngữ lắm. Trú ngụ tại đất Chàm, ngài bị tống lao và chỉ được cứu thoát là nhờ sự can thiệp của người Bồ: ngài trở về Macao .

Năm 1631 ngài ra Đàng Ngoài (Bắc) và truyền giáo tại đây nhiều năm.

Theo cha Schurhammer và ông Hoàng Xuân Hãn, thì ngài mất ngày 27 tháng 1 năm 1656. Một tài liệu khác còn cho biết là ngài chết tại thủ đô Hà Nội ngày nay.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.