Đau lưng thông thường & hư khớp sống lưng
Tây y cùng với Đông y là môn có thao tác khám trên cơ thể người bệnh để chẩn đoán hay chữa trị, thế mà… “đau lưng” không biết đau ở chỗ nào (?); phải chăng trên hình của ACR ( American College of Rheumatology) trong TSK số 323 (1 – 1 – 2007).
Lâm sàng khởi đầu bằng trao đổi với người bệnh: được biết tính chất của đau là “cơ học”; ngưoiừ bệnh không có dấu hiệu viêm nhiễm lâm sàng; sốt, sức khoẻ sa sút… Đôi khi, đã có khám qua cận lâm sàng đơn giản, thường là đủ để chẩn đoán xác định: không có hội chứng viêm sinh học(huyết cầu, công thức máu, máu lắng, CRR*, điện di); không có hình X quang “nghi ngờ” trên phim; có thể có những hình thông thường thoái hoá tại đốt sống, đĩa,, hoặc giam mỏm đốt sống, nói gọn… là đốt sông sđã bắt đầu “già đi”. Thế là đủ để chẩn đoán lâm sàng trong đa số trường hợp thông thường.
Tuy nhiên, trong một vài tình huống có đôi chút nghi ngờ với hậu ý, có thể có, một quá trình khác hơn “già đi” (thoái hoá), với tiên lượng và cách điều trị hoàn toàn khác (nhiễm, ngoại khoa, vật lý…) thì phải nhờ đến hình X quang kỹ thuật cao. Cần nhấn mạnh trường hợp như thế là hi hữu. Nhưng, trong thực tế, do sức ép của lo âu và thiếu thông tin giải thích, nên thường có vận dụng kỹ thuật cận lâm sàng mũi nhọn; nhưng lại không phải trong nề nếp thông thường chẩn đoán xác định hư sụn khớp sống, phổ biến, được gọi với những cụm từ gây ít nhiều lo âu do kết hợp ý xấu “ gai đâm đau”, “ thoái hoá thành như cây chết mục”. Giả sử, cần theo dõi tiến triển, hình trên phim X quang thông thường cũng có thể là đủ.
Điều trị
Lâm sàng đã có ghi nhận từ lâu tính chất cơ học của đau; do đó, xưa kia căn bản điều trị là bất động tối đa, nằm trên giường như người bệnh nặng! Kết quả không khả quan! Hiện nay, chỉ khuyên nằm nghỉ trong một thời gian ngắn đủ để qua cơn đau cấp.
Thuốc được khuyên dùng ưu tiên là thuốc giảm đau ngoại biên, đứng đầu là aspirin. Tác dụng phụ ở hệ tiêu hoá hạn chế sử dụng loại thuốc này. Bên cạnh đó, có tìm ra vài loại trị giảm đau ngoại biên được một thừoi rất hoan nghênh; nhưng, lại là con dao bén hai bề: người nghiện ma tuý dùng để đỡ cơn nghiện với liều quá cao gây ngộ độc; từ đó thuốc bị ngưng sản xuất.
Kháng viêm không steroid cũng cho hiệu nghiệm khi có yếu tố viêm, nhưng lại cũng có tác dụng phụ ở hệ tiêu hoá; trên thực tế chỉ khuyên dùng trong một thời gian ngắn; dĩ nhiên, bảo vệ hệ tiêu hoá là đề phòng tốt (misoprostol: Cytotec, Gymiso;omeprasole). Có khi thuốc lại gây tác dụng phụ ở hệ tiêu hoá: sưng phù, giảm niệu…; hay ở da (mẩn ngứa, mề đay…).
Hiện nay, thuốc được khuyên sử dụng là paracetamol (có khá nhiều tên thương mại: biệt dược). Sau đây là phác đồ dựa theo kinh nghiệm phổ biến trong y văn và áp dụng nhiều năm ở xã hội ta; cho kết quả đáng kể.
Khởi đầu, chọn thứ biệt dược rẻ tiền và ghi cách sử dụng như sau: lần đầu tiên trong ngày uống 2 viên 500mg, lúc nào cũng được; kế tiếp, cứ 5 tiếng uống 1 viên, trừ khi ngủ; phải uống đúng giờ; uống mỗi ngày, liên tục, không quá 6 viên mỗi ngày. Khi hết đau rồi cũng phải uống đúng giờ như trước, thêm hai ngày nữa mới ngưng uống. Tối uống ¼ (hoặc ½) viên amit5rriptyline 25 mg; có chiêm bao mộng mị, kèm chung với ¼ (1/2) viên halopéridol 1mg. Nên ghi rõ để tránh ngộ nhận: “không phải thuốc ngủ, mà tác động gốc bệnh”.
Khi người bệnh trở lại cho biết chưa thật hết đau, thế paracetamol bằng Di Antalvic(hơi ngầy ngật) hoặc Propofen(có cafein dã ngầy ngật), nhưng liều đầu trong ngày chỉ uống 1 viên. Biệt dược nàylà kết hợp paracetamol với dextropropoxyphène, chất giảm đau tác động lại trung tâm thần kinh. Vài nước Âu châu (Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Anh) không sử dụng chất này, Pháp vẫn cho phép dùng.
Thuốc có hại gan?Về mặt sinh lý, gan của mọi người, hằng ngày“vô tư” tiêt sra chất có hiệu năng như acetylcystein (khoa dược dùng để long đàm); chất này đặc thù dã paracetamol, độ 4g mỗi ngày. Do đó, mỗi ngày uống 6 viên paracetamol 500mg, tức 3g, là “thừa sức” gan tự nhiên dã dùm cho người lớn. Đối với trẻ con lại khác, phải thật cẩn trọng.
Tuỳ trình độ hiểu biết của người bệnh cũng có thể thêm những loại kháng hư khớp hiệu năng chậm, loại hoá chất: chondroitine sulfate ( Chondrosolf, Structum), diacéréine (art 50, Zondar 50), hyaluronate de Na ( A. dant, Arthrum H, Hyalgan, Ostenil, Sinovial, Structovial, Syplasyn, Synvisc); gần đây có loại chế tạo từ gân cá mập, không được xem là thuốc mà là một loại thức ăn.
Kết luận
Trong tiến trình tạo sự nghiệp cho bản thân, đau lưng – hư khớp sống lưng thông thường là “bệ phóng” hữu hiệu cho người chữa trị trẻ. Không phải nhờ thuốc kê đơn.Các nhà nghiên cứu đã làm rồi với qui mô rộng, tổng hợp ghi ở phần trên. Mà nhờ hiểu người bệnh, người đang đau về thể xác, lo âu trong tinh thần, phân hoá trong hiểu biết về bệnh của mình.Hai vũ khí sắc bén và hữu hiệu nhất là lời và giọng nói với thao tác lâm sàng. Đau! Đưa xem coi đau chỗ nào, đau làm sao?Thận nằm ở đây! Chức năng nó là lọc máu đem nước tiểu ra ngoài, không mấy khi nó đau âm ỉ, kéo dài; hễ đau là đau dữ dội mà chạy dài xuống dưới… thần kinh toạto bằng ngón tay, hồi đi học, thầy tôi dạy tôi mổ xác nên biết; nếu nó có một rễ nào đó bị kẹt thì với thao tác này ông “la làng” vì đau… Còn sức (trương lực) của 2 chi dưới của ông, vừa khám và thử qua… thì đăng ký vào hội đá bóng được. Chỗ khởi đầu là khớp sống, nếu mục thì gõ nghe “rệu rạo” rồi; nó già sớm hơn các chỗ khác, như tóc bạc sớm hơn da dùn khi già, nên nó gây đau… Chữa tại chỗ, chữa luôn tại gốc tức trung tâm thần kinh.
Về thuốc, tôi ghi thuốc này, chắc ông có biết qua, nhưng có lẽ chưa rành sử dụng theo đúng bài bản, rẻ nhất; hiền nhất; hiệu nghiệm hạng ưu;chính tôi và gia đình cũng uống (tán dương đậm để khai thác đúng mức “ hiệu năng placebo” (xem TSK số 371 – 372, ngày 1.1 & 15 – 1 – 2009, bài Placebo).
Chừng nào tôi trở lại khám?“Không thấy cần! Đã khám đầy đủ cả! Trời đất! Bệnh như ông mà cứ tái khám thì tôi chết mất. thì giờ đâu mà sống với vợ con!”.
Xin “hỏi nhỏ” tác giả “Tại sao?”; trả lời: “Như trong tình ái: đeo, người ta trốn, trốn người ta theo”… Ông bệnh nhân này, rất có thể sẽ trở lại… để nghe những lời trấn an yên lòng về “đau thận”, “thần kinh toạ”, “mục xương”, “bại xụi”…
(*): CRP: C reactive protein: Protein lên bông với polysaccarid chiết xuất từ phế câầ C; xuất hiện trong huyết tương ngay khi cơ thể bị một kháng nguyên xâm nhập và sau đó biến mất khi có hình thành kháng thể.








