Dầu lai & dầu lai vải cây hoang dại – cây công nghiệp
Cây được trồng hoặc mọc hoang khắp nơi và vì có độc nên ít được sử dụng, bị chặt bỏ khi khai hoang mà vẫn mọc nên cuối cùng tồn tại ở các lùm bụi, bờ rào, vì thế có tên Đậu cọc rào...
![]() |
Bã đậu Croton tiglium |
Các nghiên cứu hiện đại cho thấy:
- Nhựa mủ (nhũ dịch) Dầu lai chứa enzym curcain có tính thuỷ phân protein và curacacylin A, B có tính kháng sinh.
- Cành lá chứa triacontanol, sitosterol, vitexin, isotexin.
![]() |
Dầu lai vải Jatropha gossypifolia. |
- Hột Dầu lai chứa 38% dầu, 18% protein, 17% carbohydrat và chất độc curcin và chất nhựa.
Thành phần dầu béo rất thích hợp để làm nhiên liệu thay thế dầu diesel chạy xe và máy công nghiệp. Mỗi hecta trồng Dầu lai có thể cho từ 3 - 12 tấn hột chiết được 1 - 3 tấn dầu thay thế diesel (có thể trộn từ 1 - 20% vào dầu diesel). Tỉnh Ninh Thuận hiện đã có khu công nghệ cao trồng Dầu lai năng suất dự kiến cao gấp 5 - 6 lần con số vừa nêu.
Dầu lai vải, còn có tên cây Mè lai, Thầu dầu ba lá tiá, Dầu mè tía, tên khoa học Jatropha gossypifolia L, cùng họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) và cùng chi với cây Dầu lai (Dầu mè) mà thế giới hiện nay đang phát triển để lấy dầu thay thế dầu diesel...
Dầu lai vải là tiểu mộc, cao 1 - 3 mét, thân xám hay tía, có mủ trong trong. Lá màu tía, có 3 gân từ gốc chia 3 thuỳ trông giống như lá Bông vải (Gossypium barbadense) nên có tên là loài gossypifolia. Phát hoa ở ngọn, hoa có 5 lá đài, 5 cánh hoa đỏ, cao 5mm, vòi nhuỵ có 3 nuốm cho ra quả nang có 3 năng chứa hột bầu dục (tương tự như hột Dầu mè hay Đu đủ dầu), màu xám đỏ, có vân hay chấm đen. Trồng làm kiểng hay mọc hoang đây đó, nhất là vùng Ninh Thuận, Bình Thuận.
Lá Dầu lai vải chứa triterpen I và II. Thân chứa lignan (gaidain, osigadain, jatrodien), prasanthalin... Nhựa mủ từ thân, lá chứa polypeptid cyclogossin A, B có tính sát khuẩn.
Cao ether chiết từ lá và cành có tính kháng sinh diệt tụ cầu khuẩn và trực khuẩn ruột E. Coli. Nước sắc cành lá có tính diệt côn trùng, và trong thử nghiệm invitro nó ức chế ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falsiparum.Từ cành lá Dầu lai vải, người ta cũng đã chiết được jatrophon và vài chất có tính kháng ung thư bạch cầu.
Nhựa mủ và dịch chiết metanol hột Dầu lai vải được nghiên cứu để diệt ốc Bươu vàng và các loài ốc ký chủ trung gian sán Máng, sán Lá.
Kinh nghiệm dân gian dùng dầu ép từ hột Dầu lai vài để thoa trị bệnh ngoài da kể cả bệnh phong. Nhựa mủ bôi trị nhọt mủ, lở loét ngoài da, vết thương, rắn, rít, côn trùng cắn, ngứa (nhựa mủ chứa enzym thuỷ phân protein nọc độc). Dùng 3 – 5 lá sắc uống trị ho khan, viêm họng, trễ kinh, đau bụng, viêm ruột cấp, thổ tả (tiêu chảy - mửa). Lưu ý cành lá và hột Dầu lai vải hơi có độc nên phải cẩn thận về liều lượng và không dùng dài ngày.
Hột Dầu lai vải chứa 36% dầu béo, 30% carbohydrat và 0,6% saponin.
Chất béo trích từ Dầu lai vải và Dầu lai hiện đang được thế giới phát triển trồng lấy dầu thay thế diesel chạy xe và động cơ máy nổ khác. Nhận thấy vài nơi ở Ninh Thuận và Bình Thuận phá rẫy, kể cả những đám Dầu lai vải mọc hoang để trồng Dầu lai, cần lưu ý đừng phá bỏ nguồn gen Dầu lai vải quí giá, có khi Dầu lai vải có thể có sản lượng và tính năng còn tốt hơn Dầu lai.