Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 15/02/2006 00:44 (GMT+7)

Đất nước Việt Nam qua những hình ảnh của thành ngữ so sánh

Trong số các thành ngữ tiếng Việt (thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng, thành ngữ so sánh, thành ngữ thường) thì hình ảnh biểu trưng trong thành ngữ so sánh dễ khái quát hơn cả bởi nằm chúng trong một mô hình chung là A như B.

Thế giới hình ảnh biểu trưng nằm ở vế B. Theo thống kê, qua 816 thành ngữ, thế giới hình ảnh này có thể tạm chia được 10 nhóm – xét theo phạm vi sự vật:

1. Hình ảnh các con vật ( cao như sếu, ró ráy như cáy vào hang cua…).

2. Hình ảnh các đồ vật, các thực thể quen thuộc ( bé bằng cái kim, lật đật như xa vật ông vải…).

3. Hình ảnh liên quan đến hiện tượng xã hội ( đông như trẩy hội, tất tả như đi ăn cỗ hậu…).

4. Hình ảnh liên quan đến hiện tượng tự nhiên ( ngáy như sấm, lơ thơ như sao buổi sớm…).

5. Hình ảnh liên quan đến các loài thực vật ( mọc như nấm, đen như củ tam thất…).

6. Hình ảnh liên quan đến đời sống tâm linh, tín ngưỡng ( xấu như ma, lừ đừ như ông từ vào đền…).

7. Hình ảnh liên quan đến hoạt động của con người ( dẻo như múa, nói như tát nước vào bè…).

8. Hình ảnh liên quan đến ăn uống ( ngọt như đường phèn, lè nhè như chè thiu…).

9. Hình ảnh liên quan đến tên gọi các bộ phận cơ thể người ( dễ như trở bàn tay, xoen xoét như mép thợ ngôi…).

10. Hình ảnh xuất phát từ lịch sử - văn học ( nóng như Trương Phi, đa nghi như Tào Tháo…).

Sự phong phú của các loại hình ảnh trong thành ngữ so sánh phản ánh sự phong phú của bức tranh đời sống của con người Việt Nam, từ tự nhiên đến xã hội, từ đời sống vật chất đến tinh thần. Bức tranh ấy như sau:

1. Qua thành ngữ so sánh hiện lên cảnh sắc thiên nhiên của miền nhiệt đới đặc trưng. Đó là cảnh sắc của một vùng khí hậu lắm mưa nhiều nắng: mưa như trút nước, mưa như đổ nước, mưa trở thành vật chuẩn so sánh: bắn như mưa, nước mắt như mưa. Bên cạnh đó là cái nắng: nắng như đổ lửa, nắng như lửa đốt, như nắng hạn gặp mưa rào. Mọi hiện tượng, các hoạt động của khí hậu, thời tiết thường xuyên và quen thuộc tới mức chúng trở thành chuẩn so sánh trong tư duy của người Việt: ăn vụng như chớp, nhanh như gió, dấy lên như vũ bão, ngáy như sấm. Cũng có khi thiên nhiên êm đềm, thơ mộng: tròn như trăng rằm, vằng vặc như trăng hôm rằm, êm như cát,mát như nước

Hình ảnh trong thiên nhiên cũng cho thấy Việt Nam là một vùng có cảnh thiên nhiên phong phú: dài nhưsông , cao như núi, như giời như biển. Đất nước ta có sông, có biển, có núi, có non, cảnh sắc thiên nhiên thật bao la hùng vĩ. Đó là đất nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên: đen như than, cứng như thép, nặng như chì, đỏ như đồng hun, trơ như khúc gỗ, đắt như vàng.

Đây đích thực là bản sắc thiên nhiên Việt Nam.

Đặc điểm tự nhiên Việt Nam còn gián tiếp hiện qua một vài phương diện khác của đời sống con người. Chẳng hạn, đặc điểm khí hậu có thể là nguyên nhân của sự khác biệt trong liên tưởng. Hãy so sánh người Việt nói: đắt như tôm tươi, còn người Anh lại nói: đắt như bánh nóng(like hot cakes).

Tôm tươi là loại thang giá trị cao của người Việt, vì đó là hải sản mang tính hàn. Ngược lại, sống trong khí lạnh và sương mù, với người Anh, thức ăn nóng luôn được đề cao.

Có trường hợp cùng một miền khí hậu nhưng ở những dân tộc khác nhau, với các hệ sinh thái khác nhau đã có những thang giá trị khác nhau. Chẳng hạn:

Người Việt

Rẻ như bèo

Nhát như cáy

Mặt đỏ như gà chọi

Lép như trấu

Các dân tộc khác ở Việt Nam

Tày, Nùng: Rẻ như cứt voi

Thái: Nhát như gà rừng

Thái: Mặt đỏ như con căng

Tày, Nùng: Lép như con cà cuống

Nguyên nhân của sự khác nhau này không quá khó lí giải. Trong nói năng giao tiếp, người nói thuộc cộng đồng nào cũng thường chọn những hình ảnh sẵn có, quen thuộc, gần gũi trong cuộc sống hàng ngày để đưa vào lời ăn tiếng nói của mình.

2. Qua thành ngữ so sánh thấy dấu ấn nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Từ trong cội nguồn, không gian văn hoá Việt Nam vốn được định hình trên nền của không gian văn hoá Đông Nam Á. Đặc điểm chung của khu vực văn hoá này theo G. Coedes là: “Về phương diện vật chất: làm ruộng cấy lúa, nuôi trâu bò, dùng đồ kim khí thô sơ, giỏi bơi thuyền”.

Thành ngữ tiếng Việt đã lưu lại dấu ấn văn hoá lúa nước của người Việt, đó là tên gọi các con vật gắn liền với nghề ruộng: lấm như trâuvùi, kêu như rống, lấc láo như quạ vào chuồng lợn, mặt tái như cắt tiết, lạch bạch như vịt bầu

Đó là tên những con vật sống trong môi trường nước: đắng như mật cá mè, đắt như tôm tươi, lẩn như chạch, ró ráy như cáy vào hang cua, nhung nhúc như rươi tháng chín, nợ như lông lươn, bám dai như đỉa đói, nhạt như nước ốc, lò lò như cò mổ tép, mặt xanh như đít nhái, mắt dương như mắt ếch…

Đó là các giống cây quen thuộc gắn với nghề trồng trọt, với làng xã nông thôn Việt Nam: con như ngônhư khoai, vàng như nghệ, rách như xơ mướp, trắng như ngó cần, thuyền như lá tre

Đặc biệt, văn minh lúa nước in dấu rất đậm qua một số hình ảnh đặc trưng của nghề trồng lúa. Hình ảnh cây lúa xuất hiện trong nhiều dạng thể: mỏng như lá lúa, câm như thóc, muỗi như trấutrát, chắc như tên bắn đụn ra, lằng nhằng như cưa rơm, chuyện như gạorang, láo nháo như cháotrộn cơm, chán như cơm nếp nát, nát như cám

Văn hoá phương Đông và phương Tây truyền thống phân biệt nhau ở văn minh nông nghiệp và văn minh công nghiệp. Tư duy liên tưởng, thói quen lựa chọn hình ảnh so sánh trong thành ngữ người Việt cũng cho thấy bản sắc văn hoá riêng biệt này.

Người Việt Nam so sánh: gầy như cá rô đực, gầy như con mắm, gầy như cò hương, gầy như que củi… Cùng biểu đạt nội dung tương ứng, người Pháp ví von: gầy như que diêm.

Các so sánh của Việt đều quen thuộc bởi hình ảnh gắn với văn hoá nông nghiệp, xuất phát từ con mắt nhìn lựa chọn của người nông dân. Trong khi đó, que diêm là sản phẩm của máy móc công nghiệp. Dấu ấn văn hoá trong ngôn ngữ thể hiện trước hết ở cách nhìn và sự lựa chọn hình ảnh là như vậy.

3. Qua thành ngữ so sánh thấy đời sống tinh thần người lao động. Nền kinh tế nông nghiệp phụ thuộc vào tự nhiên cùng tư duy hướng nội là hai nguyên nhân cơ bản tạo nên sự khác biệt trong thế giới tâm linh của người Việt so với người phương Tây. Dân gian có tín ngưỡng riêng, dấu ấn của nó để lại trong lời ăn tiếng nói, trong thành ngữ: bòn như thổ công bòn vàng, chấp chới như thầy bói cúng thánh, vái như tế sao, len lét như rắn mùng năm, sướng như tiên, lang thang như thành hoàng làng khó…

Quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá đã đưa tôn giáo Ấn Độ vào Việt Nam, và điều đó được thể hiện trong thành ngữ : đứng như Bụt mọc, hiền như Bụt, ngồi như Bụt ốc, vắng như chùa bà Đanh, lúng túng như bà sư đẻ.

Dấu ấn văn hoá trong hiện tượng này thể hiện ở hai phương diện:

Trước hết, lời nói của người Việt đã nhắc đến thứ tôn giáo phổ biến hơn cả ở Việt Nam: Phật giáo (lời nói của người Châu Âu thường gắn với Chúa trời, nhà thờ; lời nói của thế giới Hồi giáo thường gắn với Thánh Ala).

Mặt khác, người Việt gọi đến Bụtchứ không phải Phậtdù đây là hai tên gọi của một đối tượng: Bụtlà cách gọi dân gian trong quá trình tiếp xúc tôn giáo trực tiếp từ cội nguồn Ấn Độ., Phậtlà cách gọi phiên âm từ tiếng Hán. Thậm chí, Phật Tổ Như Lai (có tóc xoăn trên đầu) được có tên Việt Nam là Bụt Ốc.

Văn minh nông nghiệp lúa nước còn tạo ra một hệ quả nữa là tâm lí cộng đồng và sự trọng tình. Là lời ăn tiếng nói của người lao động, thành ngữ in dấu tất cả những biểu hiện này. Thành ngữ ghi lại thói quen, lối sống của người Việt: mong như mong mẹ về chợ, khép nép như dâu mới về nhà chồng, lon xon như con gặp mẹ, say như điếu đổ…

Thế giới hình ảnh này còn cho ta biết đến những sinh hoạt, văn hoá cổ truyền của người Việt: đông như hội, vui như tết, đông như đám gà chọi, dẫn như dẫn cưới, cưới chẳng tày lại mặt, làm như đánh vật, nhởn nhơ như phường chèo, đẹp như tranh tố nữ, nhăn như mặt hổ phù, cao như cái minh tinh…

Cũng thành ngữ so sánh, ta nhận ra được một số sự kiện lịch sử của dân tộc như : lẩy bẩy như Cao Biền dậy non, nợ như Chúa Chổm, lệnh ông không bằng cồng bà, oai oái như phủ Khoái xin cơm. Chính vì vậy, người ta mới kể được những câu chuyện liên quan đến thành ngữ.

Tóm lại, hình ảnh trong thành ngữ so sánh rất phong phú, đa dạng. Qua những hình ảnh đó, ta thấy được đất nước Việt Nam: miền thiên nhiên nhiệt đới và nền văn minh nông nghiệp lúa nước của những chủ nhân giàu bản sắc văn hoá.

Như vậy, thành ngữ so sánh của người Việt đã “phản ánh và lưu trữ cả những khái niệm, những đặc tồn đã được kinh nghiệm, lịch sử của một dân tộc nào đó tạo ra phù hợp với điều kiện của đời sống lao động, văn hoá, xã hội của họ”.

Tài liệu tham khảo

1. Trần Ngọc Thêm – Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Tp HCM, 1997.

2. Nguyễn Đức Tồn – Tìmhiểu đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt, NXB ĐHQG, H. 2002.

3. Nguyễn Như Ý - chủ biên - Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt, NXB GD, H. 1998.

Nguồn: T/c Ngôn nhữ - Đời sống, số 12 (122), 2005, trang 25 - 27

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Nghệ An: Ông Đậu Quang Vinh giữ chức vụ Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Nghệ An
Trong hai ngày 29-30/12, tại tỉnh Nghệ An, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Nghệ An (Liên hiệp Hội tỉnh Nghệ An) đã tổ chức thành công Đại hội Đại biểu lần thứ VII, nhiệm kỳ 2025-2030. Ông Đậu Quang Vinh đã được Đại hội tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh khoá VII, nhiệm kỳ 2025-2030.
WFEO: Kênh kết nối cộng đồng kỹ sư quốc tế và cơ hội tham gia của cộng đồng kỹ sư Việt Nam
Trong một thế giới ngày càng phụ thuộc vào các giải pháp kỹ thuật để giải quyết những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, đô thị hóa và chuyển đổi số, vai trò của các kỹ sư trở nên then chốt hơn bao giờ hết. Đứng sau sức mạnh tập thể của hơn 30 triệu kỹ sư trên toàn cầu là Liên đoàn các Tổ chức kỹ sư Thế giới (World Federation of Engineering Organizations - WFEO).
Trung tâm SUDECOM nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp cho cộng đồng
Sáng ngày 29/12, Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Bền vững Cộng đồng các Dân tộc Miền núi (Trung tâm SUDECOM) đã tổ chức hội nghị tổng kết dự án “Hỗ trợ mô hình sinh kế và nâng cao năng lực tiếp cận chuỗi giá trị nông nghiệp cho cộng đồng nhằm góp phần tăng thu nhập và bình đẳng giới tại 3 xã Lương Thịnh, Thác Bà, Yên Bình, tỉnh Lào Cai”.
VUSTA nhận Bằng khen của Bộ Ngoại giao vì những đóng góp tiêu biểu trong công tác đối ngoại nhân dân 2025
Phát biểu tại Hội nghị tổng kết công tác đối ngoại nhân dân 2025, Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh khẳng định đội ngũ trí thức KH&CN đã có những đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của công tác đối ngoại nhân dân 2025. VUSTA cam kết tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong đối ngoại nhân dân, góp phần thúc đẩy hợp tác quốc tế về KH&CN, ĐMST&CĐS trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
An Giang: Hoàn thiện khung hệ giá trị văn hóa trong kỷ nguyên mới
Ngày 26/12, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội thảo: “Xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người An Giang thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong kỷ nguyên mới”. TS. Hồ Ngọc Trường - Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng; Bà Nguyễn Thị Hồng Loan - Phó Trưởng Ban TG&DV Tỉnh ủy đồng Chủ trì hội thảo
Đảng, Nhà nước tặng quà nhân dịp chào mừng Đại hội XIV của Đảng và Tết Bính Ngọ
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký công điện số 418 ngày 28/12/2025 về việc tặng quà của Đảng, Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 cho người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội, hưu trí xã hội và đối tượng yếu thế khác.
Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.