Đại học để... làm gì?
Tôi thường vẩn vơ suy nghĩ về nền giáo dục thời xưa, cái thời mà ta gọi là thời phong kiến cũ kỹ và nhất quyết đinh ninh là nó thật nhiều xấu xa, đặc biệt hết sức giáo điều, đi học cả đời chỉ biết tụng đi tụng lại có bấy nhiêu sách vở tứ thư ngũ kinh cũ mèm. Mà đúng vậy thật, nào có sai... Song, nghĩ đi rồi lại nghĩ lại. Thử xem chẳng hạn một thời kỳ vào loại tàn tạ nhất của phong kiến VN, thời Nguyễn.
Nền giáo dục đại học nào đã tạo nên từ những Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Duy Hiệu, Trương Định, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ Trạch..., cho đến Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Thái Thân, Ngô Đức Kế, Lương Văn Can, Nguyễn Thượng Hiền..., đó là chỉ thử kể qua một cách không có hệ thống gì và không theo bất cứ trật tự sắp xếp nào.
Nền giáo dục đại học nào đã tạo nên những con người đó, những nhân cách lừng lững đó? Và không chỉ từng cá thể riêng lẻ, mà là cả một tầng lớp xã hội, mà ta vẫn gọi là tầng lớp sĩ phu của dân tộc. Một tầng lớp sĩ phu chẳng hề xoàng xĩnh tí nào, đã làm nên cả một thời kỳ lịch sử oanh liệt tuy thật bi tráng, mà công cuộc cách mạng vô sản sau đó là một tiếp diễn biện chứng?
Chính là nền đại học mà ta vừa nói trên đó. Vậy nó không hoàn toàn là một nền đại học chẳng ra gì, quá ư tệ hại, và có lẽ rồi ta cũng nên có lúc cần bỏ công tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích, đánh giá lại nó cho thật rõ ràng và công bằng. Bây giờ chưa phải là lúc và cũng chưa có đầy đủ điều kiện để thật bình tĩnh làm công việc đó.
Song qua cái ví dụ thử kể ra một cách cũng gần như là ngẫu nhiên đó thôi, có thể trả lời mức nào câu hỏi có vẻ ngớ ngẩn nêu lên từ đầu bài này: Đại học để làm gì? Vì sao một đất nước nhất thiết phải có một nền đại học thật sự là đại học?
Một đất nước nhất thiết phải có nền đại học thật sự là đại học không phải chỉ là để có những con người có kiến thức và kỹ năng mà ta gọi là kiến thức, kỹ năng đại học, thậm chí bác học đi nữa, mà là để xây dựng nên tầng lớp trí thức của xã hội và dân tộc, cái tầng lớp mà không có nó thì một dân tộc thật ra không hoàn toàn xứng đáng là một dân tộc trưởng thành.
Một đất nước bao giờ cũng vậy, là do những nhà chính trị cai trị, không thể nào và cũng không ở đâu khác được. Nhưng dắt dẫn đời sống tinh thần sâu xa, bền vững của đất nước là nhiệm vụ thiêng liêng của trí thức dân tộc, không phải những người trí thức cá lẻ, mà là tầng lớp trí thức dân tộc, của đất nước ấy. Có đại học là chính để làm ra điều kiện sống còn, bền vững đó.
Và chính từ đó mà nảy sinh câu hỏi tiếp theo: Vậy thì thế nào là đại học thật sự đại học?
Thế nào là đại học?
Câu hỏi lại cũng có thể có vẻ thật ngớ ngẩn. Nước ta bây giờ đại học đầy ra đấy, ai mà chẳng trả lời được. Nhưng lại thử trở lại cái ví dụ với những tên tuổi vừa nêu ra trên kia. Có một điều chung rất đáng chú ý ở tất cả những con người ấy, vốn là sản phẩm của nền đại học ấy: tất cả họ đều được coi là những nhà nho uyên thâm, thậm chí uyên thâm nhất trong thời của họ. Họ thuộc làu kinh sử.
Nhưng hầu như tất cả học xong họ đều vứt bỏ hết những điều đã được dạy cho tụng niệm ở trường, ở lớp, làm ngược lại tất cả những “giáo điều” được áp đặt đó (hay có lẽ đúng hơn, làm đúng theo cái cốt lõi tinh túy, uyên thâm nhất tiềm ẩn trong chiều sâu của những tri thức tích lũy hàng nhiều nghìn năm ấy của một phần nhân loại).
Nghĩa là họ học để tự tạo nên được cho mình một tư duy độc lập, một nhân cách độc lập, học để dám và biết độc lập suy nghĩ bất chấp tất cả áp lực mọi kiểu, kể cả áp lực ghê gớm của những giáo điều được dạy ra rả trong sách và từ thầy, học để làm một con người biết và dám tự mình độc lập và tự do đi tìm ra chân lý cho chính mình và cho đất nước, dân tộc, trong một tình thế ngày ấy tăm tối, khó khăn biết chừng nào.
Tôi nghĩ đó chính là tiêu chí hàng đầu để đánh giá xem một đất nước đã có một nền đại học thật sự là đại học hay chưa, và nếu chưa thật sự có thì phải ra sức xây dựng cho kỳ được, vì đấy là vì sự phát triển và sống còn của dân tộc.
Đi học tất nhiên là để có kiến thức, không ai chối cãi điều đó. Nhưng kiến thức thì vô tận. Một anh bạn tôi hiện đang dạy đại học ở Bỉ có lần nêu lên một con số sau đây: từ năm 0 (sau Công nguyên) đến năm 1500, trong 1.500 năm, kiến thức của nhân loại đã tăng lên gấp đôi.
Ngày nay tốc độ đó là 18 tháng, cứ 18 tháng tổng số kiến thức nhân loại lại được nhân đôi. Vậy nên không có cách gì học thuộc cho hết kiến thức ấy. Vấn đề là cần có một số kiến thức cơ bản tối thiểu làm nền tảng, và trên cơ sở đó học được cách suy nghĩ độc lập, tạo được cho mình khả năng khi cần kiến thức gì thì biết tìm nó ở đâu, cách tìm như thế nào, và quan trọng hơn nữa, sử dụng nó như thế nào.
Nói cách khác, có kiến thức nhưng độc lập với kiến thức, không bị phụ thuộc, không nô lệ vào nó, tự mình tạo ra kiến thức mới cho chính mình, để hành động ở đời và dám chịu trách nhiệm về hành động đó của mình.
Cũng chính anh bạn ấy, tuy sống ở nước ngoài khá lâu năm nhưng chơi chữ Việt rất giỏi: anh bảo người trí thức khác với người có kiến thức ở chỗ cái trí của anh là cái “tri” (biết) luôn luôn “thức”, chứ không phải những cái biết ngủ mê, cái biết “chết”! Người có cái tri luôn thức chính là người trí thức! Xã hội cần có tầng lớp người đó, do một nền đại học chân chính tạo nên.
Vấn đề của chúng ta hiện nay chính là cần xem xét lại tất cả các trường đại học của chúng ta theo tiêu chí quan trọng hàng đầu này, để xem thử chúng có đúng là đại học thật không, hay chỉ là “phổ thông cấp bốn” như có người gọi cũng đã lâu rồi! (Sự thật thì ở các nước tiên tiến ngày nay, ngay ở cấp phổ thông người ta cũng đã không còn lối “thầy đọc trò chép” như vẫn phổ biến ở đại học ta. Ngay từ cấp I, trẻ em đã được khuyến khích độc lập suy nghĩ đến tối đa).
Câu chuyện đại học, như vậy, thật sự là câu chuyện vô cùng nghiêm túc. Bởi nó liên quan trực tiếp đến câu hỏi cơ bản: Chúng ta muốn đào tạo nên con người như thế nào đây cho xã hội đang phát triển của chúng ta?
Những con người được nhét đầy kiến thức thuộc lòng đến mụ mẫm đi (ngay từ phổ thông) vì gánh nặng ngày càng chất còng lưng (và còng óc), con người không dám và biết tự mình suy nghĩ; hay đào tạo nên con người thật sự tự do từ chính bên trong mình, cho một xã hội tự do?
Tự chủ đại học
Bao nhiêu điều kiện để xây dựng được một đại học “ngang tầm quốc tế”? Nào vật chất tài chính, nào trang thiết bị hiện đại, nào thầy thật giỏi, nào điều kiện hợp tác quốc tế tốt...
Tất cả đều hết sức cần thiết, không có không xong. Nhưng chính vì quan niệm về đại học vừa nói trên kia, nên có một điều kiện hàng đầu, có nó thì tất cả những điều kiện vừa kể mới có thể có ý nghĩa, mới phát huy được hiệu quả, bằng không thì có đổ của đổ công bao nhiêu cũng vô ích, cũng là trở lại con đường mòn cũ thôi.
Như chúng ta vừa nói ở trên, đại học là để tạo nên những con người tự chủ ở đời, để rồi có thể thật sự làm chủ một cách đàng hoàng xã hội và đất nước, vậy nên trường đại học trước hết phải là một cơ sở xã hội tự chủ, theo nghĩa lành mạnh và đúng đắn nhất của khái niệm này. Trong đề án về cải cách đại học do Bộ Giáo dục trình lên Chính phủ gần đây, có điều rất đáng mừng là tư tưởng về việc trao quyền tự chủ rộng rãi cho các trường đại học đã được đề ra và nhấn mạnh.
Đấy là một bước chuyển biến quan trọng và có ý nghĩa trong tư duy cơ bản của ngành giáo dục. Trao quyền tự chủ rộng rãi cho đại học chính là để cho đại học trở lại đúng chức năng thiêng liêng của nó, giao cho nó một nhiệm vụ trọng đại, khác hẳn công việc nhàm chán (và cũng quá dễ dàng) nó vẫn làm lâu nay là dạy cho người ta những “chân lý” tuyệt đối định sẵn: bây giờ nó phải tạo ra cho được những con người tự chủ cho xã hội.
Vậy thế nào là một con người tự chủ, và bằng cách nào trường đại học tạo nên được những con người tự chủ?
Điều kiện đầu tiên của tự chủ, như ai cũng có thể biết, là phải được tự do tư tưởng, hoàn toàn tự do tư tưởng. Không có điều kiện tiên quyết đó thì nói tự chủ chỉ là nói nhảm, hay tệ hơn nữa là lừa bịp. Trường đại học trước hết là môi trường của tự do tư tưởng, ở đấy con người tập làm quen với đức tính quan trọng nhất của một người có thể được gọi là người trí thức: một người biết rằng mình có quyền tự do tư tưởng, biết cách sử dụng đúng đắn quyền lớn nhất, cao nhất đó của con người, và biết tôn trọng quyền đó ở mọi người.
Tôi hiểu khái niệm “trao quyền tự chủ rộng rãi cho các đại học” nói trong dự án cải cách đại học do Bộ Giáo dục trình Chính phủ là như vậy. Phải từ cách hiểu đó mà triển khai các tự chủ cụ thể cần thiết khác, như tự chủ về tuyển sinh, tự chủ về chương trình, tự chủ về phương pháp dạy và học, tự chủ về tổ chức nhân sự, về đội ngũ giáo sư, về quản trị, về tài chính...
Trong đó, riêng tôi muốn nhấn mạnh đến tự chủ về phương pháp dạy và học. Về chương trình, nói chung hiện nay không quá khó, có thể tha hồ kéo trên mạng xuống vô số chương trình tiên tiến của các đại học tiên tiến trên thế giới, chỉ với một điều kiện là ta dám chấp nhận nó. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị tất nhiên không dễ, nhưng có thể hoàn toàn giải quyết được nếu ta thật sự coi đây là việc quan trọng, quan trọng hàng đầu, không chỉ của giáo dục mà của cả xã hội.
Còn về đội ngũ giáo sư và công tác quản trị đại học thì lại liên quan trực tiếp và mật thiết đến điều kiện vừa nói trên, tức phương pháp dạy và học, thay đổi cho được cơ bản phương pháp dạy và học.
Có một điều cứ tưởng đã xong, đã giải quyết xong từ lâu lắm rồi, chẳng có gì phải nói nữa, nhưng thật ra thì trong thực tế lại chưa ổn chút nào. Tại sao ta gọi những người đi học phổ thông là “học sinh”, trong khi đi học đại học lại là “sinh viên”. Danh có chính thì ngôn mới thuận: học sinh là trẻ em, cần dạy dỗ, dìu dắt chúng. Còn sinh viên là người lớn, với tất cả tư cách và quyền của người lớn.
Ở đại học khác với ở phổ thông, chúng ta làm việc với những người lớn. Đối với người lớn người ta không răn bảo, truyền cho những chân lý có trước và bất di bất dịch, mà là đối thoại, giúp người ta tự nghiên cứu, tự phân tích, tự suy nghĩ, tự tìm ra sự thật, thậm chí có thể là sự thật khác, ngược với sự thật được viết trong sách và thầy giảng. Xin thử trích dẫn một đôi suy nghĩ của một số nhà giáo dục Pháp mới đây về điều này:
Armand Frémont viết: “Theo tôi, dường như không phải chúng ta cần dạy những niềm tin đinh ninh mà là dạy sự hoài nghi”.
René Blanchet thì nói: “Cần luôn nhớ rằng một trong những mục đích chính của giáo dục không phải là chất đống cho đầy các kiến thức, mà là khơi thức dậy đầu óc phê phán”...
Còn vô số những ý kiến tương tự của những người đã lăn lộn nhiều năm trong những nền giáo dục lớn, trăn trở cả đời vì chúng. “Hoài nghi”, “phê phán”, “tranh cãi”, “phản đối trước khi chấp nhận”..., riêng tôi nghĩ một người chưa đạt được những yêu cầu tinh thần tối thiểu đó thì chưa thể coi là một người có trình độ đại học một cách đàng hoàng.
Phương pháp học ở đại học do vậy phải là chủ động nghiên cứu, tự mình đọc và nghiên cứu (tất nhiên có sự gợi ý của thầy), tự mình phân tích, suy luận, tìm tòi, nghi ngờ, đặt lại vấn đề, phê phán, phản đối, tranh cãi... để cuối cùng chỉ chấp nhận cái tự mình tin là đúng. Song, điều còn quan trọng hơn gấp bội là qua đó tự rèn luyện tư cách độc lập, tự do tư tưởng của mình, để dần dần trở thành một người trí thức thật sự, tham gia vào tầng lớp trí thức của chúng ta.
Người thầy ở đây do vậy thật sự là một người bạn lớn, uyên bác tất nhiên để có thể giúp sinh viên trong quá trình đi tìm chân lý khó nhọc của họ, và đặc biệt tôn trọng họ như những người lớn đối thoại bình đẳng với mình, cùng mình đồng hành trên con đường gian nan làm người.
Học đại học là một niềm vui lớn (“Học nhi thời tập chi bất diệt lạc hồ!”), đó là niềm vui khám phá thế giới, niềm vui tự xây dựng nhân cách trí thức của mình...
Thử nghĩ một vài kiến nghị
Có những đại học như vậy đang trở thành nhu cầu bức bách của xã hội ta, nếu chúng ta nhất quyết không cam chịu mãi số phận lạc hậu so với bầu bạn năm châu, nếu chúng ta hiểu rằng trong “thế giới phẳng” ngày nay (như cách nói rất ấn tượng của Friedman), toàn cầu hóa và hội nhập không còn là một lựa chọn mà là một thực tế, và trong cuộc chơi mới đó của thời đại ta mới có thể đĩnh đạc vào cuộc cùng thiên hạ.
Vấn đề bây giờ là bắt đầu từ đâu, như thế nào?
Chắc sẽ rất khó “cải tạo” tình hình một cách cơ bản trên cơ sở các trường đại học đang có của ta hiện nay. Có đến nhiều trăm trường và tổ chức, nề nếp, thói quen, “truyền thống” của họ đã quá lâu năm, kéo dài, chẳng dê gì lay chuyển, nhất là khi lay chuyển ở chính những vấn đề thuộc về gốc rễ chứ không phải chi tiết.
Có lẽ cách tốt nhất là thiết lập một vài ba trường đại học hoàn toàn mới, theo tư duy mới, trên những nguyên lý mới, có học hỏi một cách nghiêm túc kinh nghiệm đại học phong phú của các nước tiên tiến. Có người gọi đó là kiểu những trường “đại học hoa tiêu” (pilot), một công văn của Thủ tướng Chính phủ gọi là “trường đại học mẫu”. Tạo nên đôi ba điểm đột phá, để rồi từ đấy loan rộng ra, làm thay đổi dần tình hình chung. Tôi nghĩ sự chuyển động có thể sẽ không quá lâu đâu nếu ta có quyết sách đúng, mạnh, kiên quyết tập trung cho những thí điểm để đảm bảo cho chúng thành công.
Theo chỗ tôi được biết, một số dạng trường theo kiểu này đang cố gắng hình thành, theo nhiều kiểu và nhiều con đường khác nhau, trường công tập trung của nhà nước làm lớn ngay từ đầu, hay trường tư đi lên dần theo từng bước thích hợp... Cần khuyến khích và ủng hộ một cách tích cực và thiết thực những cố gắng đó. Tôi biết những người đang lao vào công cuộc này đều thấy rõ trước mắt mình cả một núi khó khăn về rất nhiều mặt.
Họ làm vì tin rằng đó là việc đáng làm nhất cho đất nước bây giờ, sẵn sàng cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp theo họ có ý nghĩa sống còn này của dân tộc. Những người tâm huyết với sự phát triển và tự cường của dân tộc cần đến với họ, cùng bắt tay, cùng nhau làm nên sự nghiệp mới, tạo ra bước ngoặt mới của giáo dục, của đại học, và cũng là của đất nước.
Như là đang có một công cuộc duy tân mới đang được khởi xướng. Một trăm năm trước, Phan Châu Trinh, một trong những bộ óc sáng suốt nhất của VN đầu thế kỷ 20, đã thống thiết chủ trương và bắt tay thực hiện, nhưng rồi những uẩn khúc bi tráng của lịch sử đã khiến ông đứt gánh giữa đường. Ngày nay chúng ta có hang nghìn lần điều kiện thuận lợi hơn để tiếp tục sự nghiệp dở dang của ông trong một thế giới mới. Sẽ thật xấu hổ, và có tội lớn nữa, nếu chúng ta để cho công cuộc này dở dang lần nữa, lần chần kéo rê, để mất thời cơ.
Nếu vậy, rồi sẽ phải nói sao đây với con cháu mai sau?
Nguồn: giaoducvietnam.vn,29/5/2008







